Những ‘thiên tài’ bất hiếu
Nói về
chuyện “bất hiếu” thì trong một bài báo trước đây chúng tôi đã nói chuyện ông
cụ thân sinh của ông Hồ Ngọc Nhuận đã nói rằng: “Ðời cha sợ nhất là mất con! Có
ba cách mất: một là con theo gánh hát, hai là theo cộng sản, ba là theo Công
Giáo!” (Hồi ký – Chương I – trang 8 – XB 2010.) Ông Hồ Ngọc Nhuận không theo
gánh hát, cũng không theo đạo Công Giáo, nhưng ông mang tội bất hiếu, quên lời
căn dặn của cha mà đi theo cộng sản!
Có một người còn tệ hơn ông Hồ Ngọc Nhuận rất
nhiều, về tội bất hiếu là ông nhạc sĩ Phạm Tuyên, tác giả bài hát lừng danh
“Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại Thắng!”
Nhạc sĩ Phạm Tuyên sinh năm 1930 là con thứ
chín của học giả Phạm Quỳnh, người đã bị Việt Minh Cộng Sản giết và chôn trong
một khu rừng thuộc làng Hiền Sĩ, Thừa Thiên, năm 1945. Phạm Tuyên là người đã
sáng tác hàng chục bài hát ca ngợi ông Hồ và đảng Cộng Sản: Từ Làng Sen, Việt
Bắc Nhớ Bác Hồ, Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại Thắng, Ðảng Ðã Cho Ta Sáng Mắt
Sáng Lòng, Suối Lê Nin,… trong đó, bài hát “Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại
Thắng” được đông đảo khán, thính giả thuộc lòng, vì bài hát ngắn, dễ thuộc, lại
có điệp khúc lặp đi lặp lại mấy tiếng Việt Nam-Hồ Chí Minh.
Bài hát mà trước đây ông Luật Sư Nguyễn Hữu
Liêm ghi lại “Cảm nhận được một dòng điện chạy từ đáy lưng theo xương sống lên
trên cổ trên đầu như là khoảnh khắc thức dậy và chuyển mình của năng lực
Kundalini,” “khi vừa hết bài quốc ca, mấy chục cô và bà đại biểu từ Pháp đang
chạy ùa lên sân khấu, vỗ tay đồng ca bài Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại
Thắng. Tôi nhìn qua các thân hữu Việt kiều từ Mỹ, và ngạc nhiên khi thấy hầu
hết – kể cả những người mà tôi không ngờ – đang vỗ tay hào hứng la to, Việt
Nam-Hồ Chí Minh!”
Bài hát này, bọn tù “cải tạo” chúng tôi cũng
đã thuộc lòng, trong suốt thời gian bị giam cầm phải vỗ tay đồm độp hát cả
nghìn lần, và rống lên cái điệp khúc “chống đói:” Việt Nam-Hồ Chí Minh!
Phạm Tuyên đúng là một thiên tài, bài hát của
ông nổi tiếng đến đỗi sau Tháng Tư, 1975, đứa trẻ nào ở Sài Gòn cũng thuộc và
đã được chúng đổi lời thành “Như có Bác Hồ trong nhà thương… Chợ Quán! Vừa bước
ra bị xe cán bể đầu…” và một lời khác: “Như có Bác Hồ trong cầu tiêu đậy nắp”
hay “Như có Bác Hồ đang ngồi binh xập xám, ngồi kế bên là ông Nguyễn Cao Kỳ…
Việt Nam… Hồ Chí Minh ăn gian… ăn gian… Việt Nam… Hồ Chí Minh ăn gian, ăn
gian!”
Thân sinh ra ông nhạc sĩ “đại bất hiếu” này
là cụ Phạm Quỳnh bút hiệu là Thượng Chi, sinh năm 1892 là một nhà văn hóa, nhà
báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn. Ông là người đi tiên phong trong
việc quảng bá chữ quốc ngữ và dùng tiếng Việt – thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp
– để viết lý luận, nghiên cứu.
Ông được xem là người chiến đấu bất bạo động
cho chủ quyền độc lập, tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của
triều đình Huế trên cả ba miền, chống lại sự bảo hộ của Pháp và kiên trì chủ
trương chủ nghĩa quốc gia với chính thể quân chủ lập hiến. Năm 1930, Phạm Quỳnh
đề xướng thuyết lập hiến, đòi hỏi người Pháp phải thành lập hiến pháp, để quy
định rõ ràng quyền căn bản của nhân dân Việt Nam, vua quan Việt Nam và chính
quyền bảo hộ.
Ngày 11 Tháng Mười Một, 1932, sau khi Bảo Ðại
lên ngôi, ông được triều đình nhà Nguyễn triệu vào Huế tham gia chính quyền,
thời gian đầu ông làm việc tại Ngự Tiền Văn Phòng, sau năm 1944 là Thượng Thư
Bộ Học (Bộ Trưởng Giáo Dục) và cuối cùng giữ chức vụ Thượng Thư Bộ Lại (Bộ
Trưởng Nội Vụ).
Tháng Ba, 1945, Nhật đảo chính Pháp, chính
phủ Trần Trọng Kim được thành lập, ông Phạm Quỳnh về sống ẩn dật ở một biệt thự
bên bờ sông đào gần Phủ Cam, Huế.
Khi Việt Minh cướp chính quyền, ông được “gọi
đi làm việc” ngày 23 Tháng Tám, 1945 nhưng lại bị đưa vào nhà lao Thừa Phủ,
Huế, sau đó bị giết cùng với nguyên Tổng Ðốc Quảng Nam Ngô Ðình Khôi (anh ruột
Ngô Ðình Diệm) và Ngô Ðình Huân (con trai của Ngô Ðình Khôi).
Di hài ông được tìm thấy năm 1956 trong khu
rừng ở Hiền Sĩ, Thừa Thiên (phía Bắc thành phố Huế 17km), và được cải táng ngày
9 Tháng Hai, 1956 tại Huế, trong khuôn viên chùa Vạn Phước.
Cộng sản thường nói quanh co trong việc giết
người, thường đổ tội cho cấp dưới, cho rằng có lệnh cấp tốc chuyển Ngô Ðình
Khôi, Phạm Quỳnh và Ngô Ðình Huân ra khỏi Huế để đề phòng những chuyện bất trắc
xẩy ra. Nhóm du kích áp tải các ông đến một quãng rừng cách xa Huế (Hiền Sĩ)
thì nghe tiếng tàu bay Pháp ầm ì trên đầu, tưởng đâu như tiếng máy bay thả biệt
kích, sợ không hoàn thành trách nhiệm áp tải, nên nhóm du kích này đã tự động
thủ tiêu cả ba người mà không chờ chỉ thị của cấp trên. Cũng không nghe nói cấp
trên lúc bấy giờ là ai.
Các ông Phạm Quỳnh, Ngô Ðình Khôi, Ngô Ðình
Huân bị giết như thế nào? “Một người nấp trong bụi cây gần đấy thấy Phạm Quỳnh
bị đánh vào đầu bằng xẻng, cuốc rồi mới bị bắn ba phát. Ngô Ðình Khôi không bị
đánh chỉ bị bắn ba phát. Ngô Ðình Huân hoảng sợ vùng chạy, bị bắt lại, rồi bị
bắn ngay vào đầu. Cả ba bị xô xuống mương rồi vội vàng lấp đất.” Phạm Quỳnh ở
dưới cùng, đầu hướng về phía núi, Khôi và Huân nằm đè lên, đầu hướng về phía
sông. Khi cải táng, ông Phạm Tuân (con thứ 12 của Phạm Quỳnh, hiện ở Virginia)
thấy sọ của thân phụ có một vết nứt ngang như vết cuốc, xẻng đánh mạnh vào, “ba
bộ hài cốt nằm chồng chất lên nhau… Hài cốt của thầy tôi rất dễ nhận vì dài và
ngay cạnh tôi nhận ra được đôi mắt kính cận.”
(phamquynh.wordpress.com/2009/02/18/phụ-lục)
Ông Nguyễn Văn Bồng, một nhân viên cũ của
Phạm Quỳnh, cho rằng, “không phải là Việt Minh giết cụ Phạm Quỳnh, mà chính con
cháu cụ Nguyễn Hữu Bài đã tìm được cơ hội khử Phạm Quỳnh để trả thù cho cha, về
vụ năm ông thượng thư (trong đó có ông Nguyễn Hữu Bài) bị mất chức” khi ông
Phạm Quỳnh được trọng dụng.
Nhưng chúng ta cũng biết rằng Nguyễn Hữu Bài
có mối thâm giao với gia đình ông Ngô Ðình Khả và đã có lúc muốn gả con gái
mình cho ông Ngô Ðình Diệm, không lẽ “người nhà” này lại muốn giết luôn cha con
ông Ngô Ðình Khôi? Và nếu con cháu của Nguyễn Hữu Bài (không có tài liệu nào
nêu tên) giết Phạm Quỳnh thì vì sao Ủy Ban Khởi Nghĩa tỉnh Thừa Thiên lại làm
công tố, kể tội trạng của Phạm Quỳnh như là lời kết của một bản án tử như sau:
“Phạm Quỳnh, một tay cộng sự của Pháp ở Ðông Dương, đã bao phen làm cho quốc
dân phải điêu đứng. Phạm Quỳnh đã giúp sức cho quân cướp nước làm mê muội dân
chúng Việt Nam. Với cái nghề mại quốc cầu vinh, Phạm Quỳnh đã từ một tên viết
báo nhảy lên một địa vị cao nhất trong hàng quan lại Nam triều. Phạm Quỳnh lại
còn dựa vào thế lực Pháp và địa vị của mình bóc lột, vơ vét tài sản của quốc
dân. Mặc dầu chính quyền của giặc Pháp đã bị truất sau ngày đảo chính 9 Tháng
Ba, 1945, nhiều triệu chứng, chứng tỏ rằng Phạm Quỳnh chỉ chờ cơ hội rước bọn
thực dân Pháp đến làm cho diệt nước chúng ta.” (văn bản gửi Tòa Án Quân Sự
Thuận Hóa (tức Huế), đăng trên báo Quyết Thắng Tháng Mười Hai, 1945).
Quyết Thắng là cơ quan tuyên truyền và tranh
đấu của Việt Minh Trung Bộ, số 11 ra ngày 9 Tháng Mười Hai, 1945, cũng đã loan
tin: “Cả ba tên Việt Gian đại bợm (Ngô Ðình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Ðình Huân) bị
bắt ngay trong giờ cướp chính quyền, 2 giờ (chiều) ngày 23 Tháng Tám và đã bị
Ủy Ban Khởi Nghĩa kết án tử hình và đã thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân
luật.”
Hai người con gái của Phạm Quỳnh thì cảm động
khi nghe “cụ Hồ” chối tội: “Trong lúc khởi nghĩa, cũng không sao tránh được sự
nhầm lẫn. Rất tiếc khi ấy tôi còn đang ở trên Việt Bắc.” Ai chứ “cụ Hồ” thì ta
cũng không lạ gì, “cụ” đã từng chấm nước mắt khi nói về cuộc đấu tố, cải cách
ruộng đất ở Bắc Việt, sau khi đã xử tử 15,000 nông dân vô tội (Con số của tuần
báo Time ngày 1 Tháng Bảy, 1957).
Thời Việt Minh, gia đình hai ông Phạm Quỳnh
và Ngô Ðình Khôi có làm đơn khiếu nại lên Ủy Ban Cách Mạng Lâm Thời thì được đổ
vấy cho rằng những việc trước đây thuộc thẩm quyền của Ủy Ban Khởi Nghĩa!
Ðể hợp thức hóa việc giết Phạm Quỳnh, bản án
của Ủy Ban Khởi Nghĩa tỉnh Thừa Thiên hoàn toàn là một sự vu vạ, trái ngược với
gì Phạm Quỳnh đã chủ trương, giết trước, kể tội sau để bào chữa.
Chỉ tiếc là ông mất đi, để lại cho đời một
đứa con khá bất hiếu. Cha ông bị chết thảm thương, chôn vùi trong một xó rừng,
ông lại cam tâm chuyên viết nhạc nịnh hót ông Hồ và đảng. Có công làm thơ ca
tụng “bác” và đảng như Tố Hữu còn leo đến chức phó thủ tướng, còn Phạm Tuyên
cũng có những bài nhạc “hết lời” nhưng danh vọng chỉ tới chủ tịch Hội Âm Nhạc
Hà Nội, làm ủy viên thường vụ Ban Chấp Hành Hội Nhạc Sĩ Việt Nam từ năm 1963
đến năm 1983, chứ không được là ủy viên Bộ Chính Trị như Tố Hữu (1980). Ðiều đó
chắc Phạm Tuyên cũng biết vì gốc gác của ông là con “Việt gian” Phạm Quỳnh chứ
không phải ba đời bần cố nông.
Có người biện hộ cho Phạm Tuyên cho rằng
“theo thời thì phải thế!” nhưng có phải ai lỡ ở lại miền Bắc với cộng sản cũng
“hồ hởi” “phấn khởi” ca tụng Bác và đảng như thế không, nhất là gia tộc ông
đang có một mối oan cừu với Việt Minh Cộng Sản.
Người đời thường nói: “Năm ngón tay có ngón
ngắn ngón dài,” nay học giả Phạm Quỳnh có tới 13 người con, không may có một
đứa con là Phạm Tuyên, thuộc loại “thiên tài… đại bất hiếu!” Người cộng sản
hình như chỉ biết đảng mà ít biết đến cha mẹ!
Trong bản nhạc “Ðảng Ðã Cho Ta Sáng Mắt Sáng
Lòng!” Phạm Tuyên đã reo vui, ca ngợi: “Ðảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng!
Ðảng ta ơi, cám ơn người dạy dỗ.” Chỉ tiếc rằng, thân phụ ông đã chết oan khuất
dưới bàn tay của đảng, không biết gia đình này có ngày giỗ cha hay không?
Huy Phương
304Đen -
Llttm
No comments:
Post a Comment