EM DUNG
“Tôi biết nếu không có con đập thì mỗi
mùa mưa cả vùng đồng bằng phía nam sẽ trở thành vực xoáy tàn khốc, nhưng nếu
con nước không tràn qua thì hoặc là vùng đất ấy sẽ khô thành hoang mạc, hoặc là
con đập sẽ vỡ tan tành trong cuồng nộ của dòng sông mùa lũ. Vì thế mà hằng năm
con đập vẫn chịu đựng vết đau sạt lở. Nó chịu đau để được cùng tồn tại với
sông…”
Bé Dung người mảnh dẻ, khuôn mặt nhỏ. Đôi mắt to, đen và có cái nhìn mới sáng
làm sao. Mẹ tôi mỗi lần nhìn vẻ sáng ấy cứ thì thầm nói với tôi: Sao cứ như là
ba con đang nhìn.
– Mẹ cho em ăn uống đầy đủ lắm mà sao em cứ gầy. “Khi con còn nhỏ mẹ đâu có
chăm kỹ như thế này phải không?” Có lần tôi hỏi khi thấy mẹ buộc khăn vào cổ
em, rồi chọn gắp từng miếng thức ăn bỏ vào cái chén kiểu trước mặt. Mẹ bảo: “Em
khác, con khác”. Mắt mẹ thoảng vẻ buồn.
Cái dáng gầy của mẹ ra vào trong nhà ngoài sân thật đúng như người xưa vẫn ví
von: mình hạc xương mai. Lớn lên một chút, tôi thường nghĩ mẹ tôi là con hạc từ
trên trời bay lạc xuống đậu trên mảnh đất gồ ghề đầy sóng gió là cha tôi. Cả
đời lúc nào tôi cũng mang một ám ảnh. Trong máu của mình, mẹ hay là cha đang
ngự trị?
Nhà tôi ở trên bờ sông lớn có con đập chắn ngang. Khi cơn mưa đầu mùa dội về,
nước sông cuộn lên vỗ ào ạt như rồng dữ lồng lộn xô mạnh vào bờ đá. Nghe mưa
dội ào ào trên mái hiên, em Dung reo lên, chạy ào ra sân nhập bọn cùng lũ trẻ
trong xóm, ngửa mặt lên trời tắm mưa. Mẹ tôi hốt hoảng kêu lên. Tôi đội mưa lao
ra, tóm cổ con bé lôi về. Tóc nó ướt lướt thướt dính bết quanh khuôn mặt gầy
nhỏ, hàm răng sún nhe ra vô tư. Quần áo dán vào thân thể, hóa thành mỏng tanh,
trong suốt như gương. Mẹ tôi ôm chầm lấy em, bọc nó vào trong cái khăn lông mà
lau lấy lau để. Cho thay quần áo rồi, chải tóc hơ chân rồi, mẹ tôi mới lấy cái
thước kẻ lớn dần mạnh mấy lần vào bàn tay em. Em tôi rụt tay lại, khóc òa. Mẹ
nghiêm giọng quát:
– Con gái nhà lành, ai cho lõa lồ tắm mưa như thế? Đánh thật đau cho nhớ!
Em Dung cứ tức tưởi khóc, hai con mắt to và đen cứ lấp lánh vẻ uất ức gan lì.
Cái vẻ gan lì ấy làm hại nó. Mẹ tôi định tha, nhưng thấy vậy lại bắt em quỳ
quay mặt vào vách. Tôi muốn xin cho em, muốn nói với mẹ rằng dù sao nó cũng chỉ
mới là một con nhãi ranh còn chưa hỉ sạch mũi. Nhưng mẹ bảo tôi, mắt đỏ hoe:
– Măng non không uốn, để cứng thành tre làm sao uốn được?
Tôi lặng im. Khi nào cũng vậy, nhìn thấy đôi mắt rơm rớm của mẹ là tôi đầu
hàng. Hồi tôi còn nhỏ cũng thế, nếu không sợ mẹ đau lòng thì tôi đã không đem
đổ cả lũ tượng đất lớn nhỏ mà tôi hì hụi nắn được trong góc vườn. Bắt đầu biết
nghịch đất sét, tôi đã mày mò nặn con chó, con mèo, nặn hình ông Thọ, cô tiên.
Các bạn rượu của cha tôi xoa đầu tôi mà bảo, “Con nhà tông chẳng giống lông
cũng giống cánh”, con của một họa sĩ thì tương lai rõ là một nhà điêu khắc rồi,
không sai… Rất có thể điều tiên đoán ấy sẽ thành sự thật và tôi sẽ trở thành
con kế nghiệp của cha tôi nếu một hôm tôi không khờ dại nặn ra pho tượng đất
sét ấy. Thấy nó, mẹ tôi choáng váng, nghẹn không nói được. “Huân, con làm gì
thế này?” Bức tượng của tôi chỉ dài chừng ba tấc, đây là hình ảnh một người đàn
bà không mặc quần áo. Năm đó tôi mười hai tuổi, với cục đất sét tôi thể hiện sự
tò mò giới tính của tôi, và không quên dùng một nhúm tóc rối nhét vào giữa hai
bắp vế pho tượng.
Mẹ tôi đập bể tan tành cái tượng ma quỷ đó. Tôi uất ức, vì đó chỉ là kết quả sự
chiêm ngưỡng hồn nhiên khi một lần tôi tình cờ thấy mấy cô hàng xóm đi tắm
ngoài bến nước. Mẹ tôi khóc không thành tiếng. Người cho đào hết bộng đất sét
sau vườn đem đổ đi, thay vào bằng đất bùn lấy ở bờ sông sau mùa lũ. Bộng đất ấy
dài bốn mét, sâu đến hai mét tư, khi vét xong để lại một lỗ trống toang hoác
nơi góc vườn. Người ta lấp đầy nó bằng đất thịt lấy ở triền sông. Ba tôi bảo:
“Việc gì phải thế”. Mẹ tôi chỉ nói: “Đất này trồng cây, trồng hoa tốt hơn”. Từ
lâu rồi mẹ tôi vẫn thường đối phó với ba tôi bằng cách dịu dàng lảng tránh như
thế. Giữa ba mẹ tôi không bao giờ to tiếng, bởi người nhường nhịn lúc nào cũng
là mẹ. Mẹ mảnh khảnh, nhỏ nhẹ, tối ngày cố xếp đặt căn nhà, khu vườn thật chỉn
chu, ngăn nắp. Ba tôi thì cao lớn, nóng nảy, ra vào trong cái trật tự của mẹ
như một con ngựa chiến bị buộc trong chuồng. Từ ngày ấy, mẹ luôn đóng cửa phòng
vẽ của ba tôi, nó đã trở thành một thế giới riêng đầy bí ẩn. Ngoài giờ ăn, ngủ,
hầu hết thời gian ba tôi giam mình trong đó. Rồi ít lâu sau, người ngủ luôn ở
đấy, hầu như không quay về phòng nữa. Cuộc sống gia đình vẫn lặng thầm trôi đi
trong êm ấm, và với tôi thế giới bên trong căn phòng vẽ vẫn là một thế giới bí
ẩn đầy kích thích khiến tôi luôn tưởng tượng mà không dám đặt chân đến bao giờ.
Em Dung quỳ úp mặt vào tường, thật tội nghiệp. Tôi mua bánh chuối ram, gói
trong miếng giấy, len lén đem vào cho em. Lúc đó tôi mới biết em đã không quỳ
yên một chỗ như tôi tưởng. Em nhích dần dần đến bên cửa sổ, bây giờ em chẳng
còn úp mặt vào bức vách mà đang nhìn ra sông. Gió từ ngoài thổi vào, làm tóc
mai em bay nhẹ, em nheo mắt và cười, trong khi cao hứng em tì luôn hai khuỷu
tay chồm lên cửa sổ như người ngắm cảnh. “Thế mà gọi là chịu phạt đấy à? Mẹ
thấy thì lại bắt quỳ thêm cho đến chiều!” Em giật mình, quay nhìn tôi, hơi e dè
một lát rồi nhoẻn cười: “Suỵt, mẹ đang nấu ăn, không thấy đâu”. Hai anh em quỳ
bên nhau nhìn ra con đập. Con nước đầu mùa vẫn lồng lộn dưới chân kè đá. “Anh
Hai ơi, sao mà mắt anh đỏ?”. Em Dung hỏi, bàn tay nhỏ của em chạm lên má tôi.
“Anh nhớ ba” “Ba ngày xưa ra sao hở anh?” Tôi lúng túng, không biết nói sao.
Thực tình là ba đã có nhiều điều không phải với mẹ. Nhưng tôi không thể không
yêu ba tôi, không thể không cảm thấy mối liên hệ máu thịt và sức hấp dẫn kỳ lạ
toát ra từ người đã cho tôi cuộc sống. Mỗi lần nhìn con đập này, tôi không sao
quên được những ngày vừa ngớt cơn mưa đầu mùa, ba dẫn tôi lội nước đến bên bờ
sông. Dòng nước đã vượt qua con đập, chảy xiết. Có năm nước dữ, một bên mé đập
sạt đi những tảng lớn, sau mùa lũ người ta phải vá lại. “Ba ơi, sao người ta
không xây đập cao lên chừng năm tấc nữa cho nước khỏi tràn hở ba?” Tôi hỏi. Ba
tôi cười, người cõng tôi lên vai cho nước khỏi làm ướt chân tôi. “Con đập là kỷ
cương của dòng sông, nhưng nó không phải là chính dòng sông”. Ba tôi nói, câu
trả lời của người bay thoảng trong trí nhớ vô tư của tôi hồi ấy, đến giờ tôi
vẫn nhớ nhưng chẳng hiểu thật sự người muốn nói gì. Có lẽ đó là những giờ đáng
nhớ nhất của hai cha con, vì ba tôi về sau này càng ngày càng lặng lẽ, nếu
không giam mình trong phòng vẽ thì cũng đi giang hồ đâu đó, cho đến khi người
mất đột ngột trong một chuyến ngao du. Tôi còn nhớ đấy là tháng cuối mùa mưa,
tôi sắp tròn mười bảy tuổi.
Mẹ tôi một đời khổ hạnh, âm thầm, nhẫn nhục chỉ để được danh chính ngôn thuận
đứng ở đầu quan tài cha tôi khi đưa người đến mộ. Tôi gói những cái cọ vẽ bỏ
xuống huyệt cho cha tôi. Ở đằng xa, người đàn bà ôm đứa bé đứng co ro, khép
nép, cái nón che nghiêng nửa mặt. Nhiều người ném về phía ấy những cái nhìn
khinh rẻ, những cái nguýt, cái háy đầy vẻ lạnh nhạt. Cô ta xin một chiếc khăn
tang. Bà thím tôi trề môi: “Khăn tang gì mà khăn tang, ý nó muốn chia gia tài
đó”. Nhiều người rỉ tai mẹ tôi: “Đừng cho. Phải thử máu xem có chắc không cái
đã”. Mẹ tôi chỉ khóc, che mặt không dám nhìn. “Hỏi thằng Huân, nó là con trai,
quyền huynh thế phụ” “Đừng cho, bây giờ mà cho, sau phiền phức lắm” – Tiếng
người thì thào bên tai tôi. Tôi đau thắt, lòng ngổn ngang, cảm giác như có ai
xô ập mình đến bên góc tường. Người đàn bà ấy bồng đứa bé đến trước mặt tôi. Bất
giác tôi đưa hai tay đón đứa bé vào lòng. “Mày điên sao Huân, đã nhắc cho mà
biết…” Người nọ, người kia xì xào, có câu đầy mỉa mai: “Thằng này có căn tu,
không chừng là Bồ Tát chắc. Mẹ đẻ ra mà không binh, đi nghe lời người dưng”.
Tôi không nói, ôm em vào lòng. Không cần phải thử máu, tôi thấy nơi khuôn mặt
của đứa trẻ là ánh mắt dữ dội của cha tôi, những sợi tóc và đôi môi hoang dã
của cha tôi…
Tôi đã không thành nhà điêu khắc mà trở thành một kỹ sư nông lâm, như mong ước
của mẹ tôi. Mẹ chỉ muốn tôi sống một đời yên bình, không phải bước lên con
đường nghệ thuật đầy sóng gió và bất trắc.
Tôi cũng thích nghề của tôi vì tôi yêu cỏ cây, yêu cái mầu xanh thẳm sâu từ đất
hiện ra rồi vươn cao theo mưa nắng. Thuở đầu đời tôi cũng muốn đi thật xa,
nhưng mẹ tôi rơm rớm nước mắt, thế là tôi ở lại… Mẹ ước ao sau này các con tôi
lớn lên bên cạnh người, như cành lá từ cội mọc ra rồi lại rụng về cội, ấm cúng
thân thương. Mẹ sợ tôi phải sống như ba tôi, người ở đây mà hồn bay xa đến tận
nơi nào.
Khi ba tôi mất rồi, tôi mới đặt chân vào phòng vẽ. Những bức tranh người để lại
đan kín trên các bức vách rộng, lộng lẫy và hoành tráng, đấy là cả một gia sản
mà người để lại cho tôi. Mỗi bức tranh như một ẩn ngữ mà tôi, kẻ kế thừa, chưa
có chiếc chìa khóa mật mã trong tay để giải thích. Nhưng cần gì, chẳng phải
ngày xưa cha tôi thường bảo: “Cuộc đời là để sống chứ không phải để giải thích”
hay sao? Trong những bức tranh này có rất nhiều bức vẽ hình người đàn bà với da
thịt lộng lẫy. Từ những mảng mầu trên ngực, trên môi, trên đôi tay mọc lên cây
lá và cỏ hoa đầy sức sống: cái vẻ rực rỡ của mầu xanh cây cỏ, của mầu hồng da
thịt này, tôi biết cội nguồn của nó. Hào quang lấp lánh ấy tôi đã thấy một lần
nơi gương mặt người đàn bà đã trao em Dung cho tôi. Có phải người đàn bà ấy đã
đem đến cho cha tôi cái gia sản của sắc mầu và ngôn ngữ này? Có thể nói thế hay
không, tôi cũng không biết nữa… Đôi khi tôi hoang mang tự nhủ: Lẽ nào tôi đang
mắc nợ bà ấy sao, hay là bà ấy nợ tôi?
Trời ngớt mưa, tôi vội vã từ những cánh đồng Hương Thủy về thăm mẹ. Sân nhà
sũng nước, mái hiên ngói cổ nhỏ từng giọt, từng giọt vẽ ra một hàng lỗ chỗ
trũng xuống trên mặt đất. Em Dung chạy ra đón tôi, hai cánh tay gầy như hai cái
que ôm lấy cổ tôi, nhảy thót lên hông tôi cứ như thể em còn nhỏ lắm. Tôi bẹo má
em:
– Lên mười rồi nghe, còn làm ra vẻ nhỏ em quá há.
Em cười, cầm tay tôi kéo vào phòng em, chỉ cho tôi những bức tranh mầu nước
nguệch ngoạc. Em khoe: “Anh Hai ơi, em đi thi vẽ ở nhà Thiếu nhi, được giải
nhất”.
– Đâu nào, đưa anh coi, tranh mèo cào của Dung sao hên thế.
Em đưa cho tôi xem bức tranh em vẽ dòng sông đang chảy tràn qua con đập, với
những con cá đang tung mình nhảy qua theo dòng nước. Những con cá có đôi vú rất
nảy nở, như đang căng đầy sữa.
Tôi cười. Em bảo tôi: “Để cho cá con bú thật nhiều, cho nó mau lớn”. Tôi nhìn
một lát, gật đầu rồi cất bức tranh vào hộc bàn. “Xem chừng mẹ thấy thì chết”.
Em Dung nhìn tôi: “Sao thế, khi nhỏ em không bú mẹ sao?”.
Tôi không trả lời, chỉ nhìn vào mắt em. Mắt em tôi có hàng mi dài và cong đen
mướt như mắt di-gan. Tôi biết, mẹ tôi đã phí bao nhiêu công phu để dập tắt cái
căn cơ hoang dã trong đôi mắt này. Nhưng vô ích. Tôi biết, rồi một ngày em sẽ
ra đi…
Từ lúc yêu cây cỏ và đất đai, tôi cũng đã hiểu dòng sông và con đập. Tôi biết
nếu không có con đập thì mỗi mùa mưa cả vùng đồng bằng phía nam sẽ trở thành
vực xoáy tàn khốc, nhưng nếu con nước không tràn qua thì hoặc là vùng đất ấy sẽ
khô thành hoang mạc, hoặc là con đập sẽ vỡ tan tành trong cuồng nộ của dòng
sông mùa lũ.
Vì thế mà hằng năm con đập vẫn chịu đựng vết đau sạt lở. Nó chịu đau để được
cùng tồn tại với sông…
Trần Thùy Mai
No comments:
Post a Comment