Chửi
Hồi
tiền chiến, báo chí có kể câu chuyện một người ngoại quốc nghiên cứu về lối
chửi nhau của các dân tộc, đến Việt Nam, nhân đọc một đoạn văn của Thanh Tịnh,
đã nhắn hỏi và được Thanh Tịnh cung cấp cho tài liệu. Nhà khảo cứu nhận rằng
tài liệu rất quý báu, lối chửi ở Việt Nam rất xuất sắc, đã gửi biếu Thanh Tịnh
một món quà (hình như là cái máy chụp hình?) để đền ơn.
Võ
Phiến
Hiện thời nghe nói linh mục Trương Đình Hòe đang soạn một luận án tiến
sĩ ở Pháp về ý nghĩa của cái chửi Việt Nam.
Trong cuốn Ngôn ngữ và thân xác vừa xuất
bản, Nguyễn Văn Trung cũng có nghiên cứu về vấn đề chửi tục. Ông mở đầu: “Có lẽ không có dân tộc nào trên thế giới văng tục, chửi tục nhiều
và hay như dân tộc Việt Nam.” Hay ra làm sao? Không thấy ai phân
tích. Vả lại, cái hay cái đẹp là chuyện thẩm mỹ; sự nhận định, thưởng lãm, có
thể chủ quan. Kẻ yêu thì cho là hay, người không thích lại chê dở. Chờ cho dứt
khoát hãy còn lâu.
Cái nhiều dễ chứng minh hơn. Và nguyên một cái nhiều ấy đã mang nhiều ý
nghĩa. Nếu Nguyễn Văn Trung đã so sánh với các dân tộc trên thế giới và nhận
thấy người Việt chửi nhiều, thì thôi, không còn gì để biện luận nữa; đó là sự
thực khách quan, chửi là một đặc điểm của dân tộc.
Vấn đề chỉ còn là tìm hiểu đặc điểm ấy.
* * *
Chửi là một cách xung đột bằng lời. Và chỉ bằng lời thôi, chứ không phải
bằng những lý luận do lời nói phô diễn ra. Do đó, chửi nhau khác với cãi nhau.
Hai kẻ cãi cọ cố thắng địch bằng lý lẽ. Dĩ nhiên khi đôi bên đã to
tiếng, mặt mày đã sưng sỉa lên, thì giá trị luận lý của những câu cãi thường
không thể xuất sắc. Lúc bấy giờ ở mỗi người chỉ có tình cảm sôi sục hoành hành,
chứ lý trí không còn sáng suốt bình tĩnh để đi sâu vào những suy luận tinh tế
nữa. Dù sao, nội dung một cuộc cãi nhau cũng là lý luận; kẻ thua cuộc là kẻ “bí”.
Để khỏi bí, người cãi phải lắng nghe, theo dõi lời lẽ của đối phương, hầu tìm
cách bắt bẻ.
Chửi nhau thì, trái lại, không cần nghe gì ở đối phương cả. Cơ sự đã
bùng nổ, mạnh bên nào nấy chửi, lấy hơn. Kết thúc cuộc chửi lộn, không ai thua
vì bí. Thua ở đây có nghĩa hoặc là không đủ hơi sức để tiếp tục nên phải ngừng
lời trước, hoặc là phải lãnh những lời nặng của đối phương mà vốn liếng hiểu
biết của mình ít ỏi không cho phép trả lại những đòn nặng tương đương.
Như thế, một trận chửi lộn giống như một trận đánh lộn. Một đàng vung
tay vung chân vung cây vung gậy đập loạn xạ xuống kẻ thù; một đàng đập loạn xạ
bằng lời. “Đồ bò. Đồ chó. Quân súc sinh. Đ. mẹ mày. Ị vào mặt mày.” v.v… Đó là
những đòn quất xuống, mong cho kẻ địch bị đau, không mong kẻ địch phải bí. Việc
thiết yếu trong trận chiến này là đánh thật mạnh và làm thế nào để chịu đựng
nổi những cú đánh của đối phương. Đánh được mạnh hay không là tùy thuộc cái vốn
kiến thức chuyên môn của kẻ chửi. Để chịu đòn, người ta cố gắng để khỏi phải
nghe tiếng nói kẻ thù: hoặc bịt tai lại, hoặc chửi to và liền hơi để lấp lóng.
Trong trường hợp không chửi lại, người ta phớt tỉnh, làm lơ, tỏ vẻ như không hề
nghe thấy tiếng chửi của đối phương, như những tiếng đó không ăn nhằm gì, không
đụng chạm và làm tổn thương mình chút nào.
Phương thức tấn công cũng như phương thức phòng vệ của chửi lộn cho thấy
nó gần với chiến tranh, mặc dù phương tiện của chửi lộn là lời nói vốn có công
dụng giúp cho hiểu nhau. Trong tấn công, những câu mà người chửi văng ra không
chứa đựng một lý sự gì. Hoặc ngắn ngủi, cộc lốc như: “Đồ chó đ… Đồ ăn c…”, hoặc
dài dòng văn tự như “Cha năm đời mười đời thằng đẻ ra bố đứa nào lấy con vịt
của bà, nó mà không đem trả thì bà đào mả ông bà ông vải nó lên, bà bắt nó chui
vào váy bà, bà bắt nó liếm l… bà”, những lời lẽ như thế cũng không nhằm phân
giải một sự thực nào, một lẽ phải trái nào cả. Tác dụng của nó là tác dụng tàn
phá, gây đau đớn, như đạn, như mìn. Cuộc trao đổi giữa đôi bên là trao đổi
những thứ như vậy: càng nhiều càng tốt, hỏa lực càng mạnh càng hay. Trong phòng
vệ, thì bịt tai là khiên, là mộc, là áo giáp, mũ sắt, là công sự, phòng tuyến
v.v… Trong một cuộc chửi lộn, có kẻ nói qua người nói lại, nhưng rõ ràng không
có đối thoại. Cãi nhau thì phải vểnh tai nghe, chửi nhau phải vít tai lại. Trong
trường hợp này không cần biết gì về ý nghĩ của đối phương nữa, không cần đếm
xỉa đến lập trường của họ: giữa đôi bên, tuyệt đường tương thông.
* * *
Giữa hai người, một khi có sự xích mích phải dùng lời lẽ để giải quyết,
sự việc diễn tiến qua nhiều chặng đường trước khi đến chỗ chửi nhau.
Trước hết, đôi bên có thể bình tĩnh, hòa nhã, đối chiếu quan điểm trong
một cuộc thảo luận có tính cách xây dựng, nhằm đi đến cảm thông, dàn xếp.
Nếu quan điểm bất đồng, không dàn hòa được, bấy giờ là khởi đầu của xung
đột. Lời lẽ được sử dụng dần dà đi xa mục đích biện giải mà nhằm công dụng gây
tổn thương; người ta nói mát, nói cạnh nói khóe, nói kháy, nói bóng nói gió,
nói khích, người ta chế giễu, châm chọc. Đó là những hoạt động phá rối, du
kích. Nếu không chấm dứt, nó dẫn tới xung đột trực diện: cãi vã om sòm. Cuối
cùng chửi nhau. Đến đây là biện pháp mạnh rồi. Là hành hung, là bạo động. Và
bạo động (bằng ngôn ngữ cũng vậy) gây cảm tưởng khiếp sợ, ghê tởm. Nghe lời chế
giễu, nói cạnh nói khóe, người ngoài cuộc lắm khi thấy thích thú, nếu gặp được
những đối thủ thông minh, láu lỉnh. Ở đây, còn có sự biểu diễn của lý trí. Trái
lại, chửi nhau thì chỉ còn tranh đua ở mức độ tàn nhẫn.
Đi đôi với lời lẽ, ở mỗi giai đoạn có những điệu bộ tư thế tương xứng.
Khi chế nhạo, nói mát v.v…, người ta có thể cười mỉa, cười khẩy, giọng nói có
thể ôn tồn, ngọt ngào mặc dù giả tạo. Bất chợt tìm được câu hài hước thú vị,
chính kẻ nói có thể phá ra cười thực tình. Người ta còn thưởng thức được cái
hay ho, còn khinh khoái, thỉnh thoảng còn vượt được lên trên sự tức giận.
Trong khi cãi vã, hai bên đương sự có lúc tức tối, có lúc tỏ thái độ
kinh ngạc, có lúc làm ra vẻ khinh thị, mỉa mai v.v… Biểu lộ của con người hãy
còn linh động, phong phú.
Nhưng đến độ chửi nhau thì cả con người đơn giản chỉ còn là phẫn nộ ngùn
ngụt. Trong những trận thư hùng như thế diễn ra ngoài đường ngoài chợ, thường
trông thấy những đối thủ xắn váy, xắn quần, chổng mông, vỗ vào chỗ kín đôm đốp,
mắt long lên sòng sọc, người chồm tới, miệng gào nổi gân cổ… Tư thế của chiến
sĩ ở trận tiền.
Vậy chửi là hình thức xung đột mạnh nhất bằng lời.
* * *
Thi sĩ Paul Valéry có ý nghĩ ngộ nghĩnh về chuyện chửi rủa. Theo ông, sờ
dĩ bị chửi rủa xỉ vả mà thấy đau, ấy là vì ta chỉ nhìn có một phần con người
đang làm nhục ta: cái phần bên ngoài lúc hắn đối diện hành hung ta. Hãy hình
dung lúc chưa gặp ta, hắn một mình hậm hực, hì hụi bấu xé băm vằm một kẻ thù
tưởng tượng, một hình ma. Trông thấy trọn vẹn hắn, là trông thấy một tên khùng.
Thiết tưởng chỉ cần trông một nửa con người đang chửi, chửi theo lối
Việt Nam, cũng thấy được cái gì khá lạ lùng, lý thú.
Xin tưởng tượng hai người đối mặt nhau, xướng lên những câu thế này:
“Mẹ mày, cả nhà mày ra đường bị gà nó mổ mất dái từ già đến trẻ,
– Con khỉ trù, chó nó ăn mất cu, chết đi thành con ma trơi bay dọc đường
xó chợ.
– Đ. mẹ mày.
Tao ỉa vào đầu lâu hoa cái nhà mày.
– Tiên sư mày, tao chẻ xưong mày ra.
– Đồ chết tiệt, mày đi ra đường xe cán, mày đi sông thuyền nó chìm v.v…”
Ý nghĩa những câu ấy đại loại là:
1/ Nêu lên những nhận định rất bất lợi về giá trị của đối phương (đồ chó
đéo, đồ đĩ điếm, con khỉ trù v.v…)
2/ Nêu lên những tai họa mong xảy đến cho đối phương (bị gà mổ mất dái,
chó ăn mất cu, xe đè, thuyền chìm v.v…)
3/ Nêu lên những hành động bạo tàn mà ta muốn tự mình thực hiện đối với
chính kẻ địch và những người thân yêu của hắn (chẻ xưong ra, đ… mẹ nhà nó, ị
vào mồm, đào mả tiên sư v.v…)
Hà tất ngồi một mình tưởng tượng chẻ xương hay ị vào mồm một kẻ vô hình
mới là khùng? Gặp mặt nhau, cách nhau gang tấc, có thể túm lấy người ta để chẻ
xưong để ị vào mồm mà không hề túm lấy, chỉ đứng cách xa kê khai những ước
muốn, những hành vi mình mong làm, kê khai nhiệt liệt hàng giờ như vậy, đó cũng
là một cảnh tượng khác thường chứ, không sao?
Khi chửi, tình cảm trong lòng là thứ tình cảm ngùn ngụt của lúc lâm
trận, tư thế bên ngoài là tư thế hầm hầm của chiến đấu, dự tính của hành động
là những dự tính cực đoan ác liệt; tuy vậy rốt cuộc bạo động thực sự không xảy
ra, tổn thương cụ thể không hề có.
Bảo chửi là hành hung thì quá đáng: kẻ chửi chưa có hành động hung dữ.
Nhưng bảo chửi chỉ là ước muốn điều dữ cho kẻ khác thì lại không đủ: kẻ chửi đã
đi quá sự ước muốn suông. Hắn đã thét to sự ước muốn đó vào mặt kẻ thù. Như vậy
tuy không gây tổn hại cụ thể trên thân xác kẻ thù, hắn cũng làm cho đối phương
đau đớn. Không thực hiện hoàn toàn những ước muốn độc hại, nhưng hắn đã đi tới
nửa con đường thực hiện.
Bởi không ra tay làm được những điều mình mong muốn cho nên người chửi
thường ước mong quá trớn. Trong một trận chửi, có thể nghe kê khai liên tiếp
các việc: nào là đ. mẹ kẻ địch, đút c… vào mồm kẻ địch, nào là bắt kẻ địch liếm
l… mình v.v… Giá có thể xông tới thực hiện lấy một chuyện thôi trong bấy nhiêu
chuyện thì đã đủ hả giận rồi. Chính vì không làm một chuyện nào cả nên mới ao
ước nhiều đến thế.
Một phần vì không phải đánh nhau bằng chân tay gậy gộc, không nhằm một
cái đích xác thịt cụ thể; mà đánh nhau bằng lời nên được tha hồ vung vít vào
những mục tiêu rộng lớn. Một phần khác vì đánh bằng lời, bằng tưởng tượng,
không thỏa mãn được ước muốn, nên người chửi có xu hướng đi quá xa: sau khi
giày xéo đối thủ, hắn còn xâm phạm tới tất cả những gì là quý trọng thân yêu
nhất của đối thủ. Việc đụng chạm tới mồ mả, tổ tiên kẻ thù, có lẽ là do đó.
Nguyễn Văn Trung cho rằng “lời chửi thiết yếu bao hàm một niềm tín tôn
giáo dựa trên đạo thờ tổ tiên, vì giả sử một ngày kia người Việt không còn thờ
ông bà ông vải, khấn vái, cúng giỗ, thì đã hẳn lúc đó lời chửi sẽ không còn ý
nghĩa, tác dụng gì nữa”, và “người ta không thể chửi tục nếu không dựa trên một
số niềm tin có tính chất tôn giáo.”
Thật vậy chăng? Nói những câu như “Đồ mất dạy, mày cứ há hốc mồm ra thì
ông ị vào” hay “Mày khôn hồn cút đi, không có tao ị vào mặt bây giờ” thì cần gì
phải dựa trên một số niềm tin tôn giáo? Không thờ ông bà ông vải tưởng cũng cứ
đòi làm dơ mồm kẻ khác được, đâu có sao. Và không thờ ông bà ông vải, bị kẻ
khác đời làm dơ mồm mình tưởng vẫn chịu một tác dụng đau lắm, đâu phải không
tác dụng gì.
Trong chửi rủa, có những hành động bạo tàn muốn nhằm vào đối thủ, có những
hành động bạo tàn muốn vượt quá đối thủ nhằm tới thân nhân họ, cũng như có
những tai họa mong được do ta gây ra, có những tai họa mong quỷ, thần, gà, chó,
xe cộ v.v…, những rủi ro huyền bí gây ra. Như vậy việc chửi rủa có biểu lộ sự
tín ngưỡng của dân tộc, và những ai muốn tìm hiểu về tín ngưỡng Việt Nam có thể
tìm hiểu được một phần qua các câu chửi cũng như qua nhiều phong tục khác;
nhưng chửi không đến nỗi thiết yếu bao hàm tín ngưỡng, không đến nỗi không tín
ngưỡng không chửi được.
Không có tín ngưỡng, quyền lực của kẻ đánh đá bằng mồm sẽ bị giảm sút đi
nhiều. Chỉ có vậy thôi. Và như thế kẻ chửi thiệt thòi tội nghiệp: không ra tay
đánh thực mà chỉ đánh gió, hẳn nên được đền bù bằng cách tha hồ loạn đả lung
tung cho hả.
* * *
Chửi là đi nửa con đường hành hung. Điều làm chúng ta thắc mắc là tại
sao lại chỉ đi có nửa đường? tại sao chọn dừng lại đó?
Bảo rằng gây đau đớn cho đối thủ đến như thế là tột độ, rằng như thế ta
đủ trọn vẹn hả giận rồi, nhất định không đúng. Vậy tại sao không thượng cẳng chân
hạ cẳng tay.
Đến đây, bất giác nghĩ đến một nhân vật lừng danh khắp Á Đông: A.Q.
AQ. trong suốt cuốn chính truyện, không thấy có kẻ thân, chỉ thấy người
thù, nếu chẳng ra hẳn là thù hằn thì cũng ghét bỏ khinh bỉ ả. Đối với mỗi hạng
đối thủ, AQ. có thái độ khác nhau. Thằng Đôn Oắt Tì và lão già Vương Xồm coi bộ
yếu kém, nên vừa gặp nhau AQ. khiêu khích và vung tay sấn ngang tới hành động.
Còn quan tú “Tây Giả Cầy” với quan cử, thì ả chỉ đối phó bằng cách chửi “con mẹ
nó.” Có một lần ả chửi thành tiếng: “Thằng trọc… con lừa,” và bị thằng Tây Giả
Cầy đập cho mấy cây ba-toong lên đầu, vì vậy để bảo đảm an ninh, AQ. ưa chọn
cách chửi thầm trong bụng. AQ. có biết câu “quân tử động khẩu bất động thủ”,
nhưng xử sự linh động: gặp kẻ yếu thì ả vui lòng làm tiểu nhân mà gặp phải kẻ
mạnh hơn mình, ả đề nghị làm người quân tử.
Như vậy, cái gì ngăn chặn một người chửi rủa đi thẳng tới hành động ấy
là sự nguy hiểm.
Nét tâm lý ấy ở AQ., theo lời ông Giản Chi thì nó tiêu biểu cho cái mà
người phương Bắc nước Trung Hoa gọi là “phạp”. Phạp là ươn hèn.
Ở đời, những kẻ khỏe mạnh, không e ngại vũ lực, thường không chịu ngừng
mãi ở thái độ quân tử. Vì thế hạng khỏe chửi không phải là hạng vai u thịt bắp;
thực vậy, hiếm khi trông thấy cảnh tượng một người đàn ông vạm vỡ chửi bới dai
dẳng. Trái lại, chửi rủa ác độc và dông dài thường thường là sở trường của phái
yếu.
Thế gọi là phạp? Nhận xét phũ phàng quá. Nhất là khi chửi rủa đã được
nhận làm một đặc điểm của dân tộc. Bởi vậy, nên đề nghị một cách giải thích
khác. Thiết tưởng chửi có thể coi như hình thức xung đột khôn ngoan của một dân
tộc khôn ngoan.
Các va chạm trong cuộc sống một khi không thể tìm xếp ổn thỏa, được giải
quyết hoăc bằng cách nhịn nhục cho qua hoặc kết thúc bằng vũ lực. Nhịn nhục thì
bề ngoài êm thấm đấy, nhưng bên trong nó đầu độc con người do niềm uất hận bị
đè nén. AQ. đánh nhau thua mãi, về sau không dám đánh ai nữa, mỗi lần tức giận
đành cứ quắc cặp mắt im lặng nhìn kẻ thù: sự suy đốn tinh thần của A.Q có thể
một phần do đó mà ra. Nuốt lịm cơn giận, đó không phải là phản ứng thuận với tự
nhiên. Trong tự nhiên, con người, cũng như con thú khi bị tấn công đe dọa, cơ
thể tự động chuẩn bị để tức khắc đối phó: tim đập mạnh, hơi thở gấp, huyềt quản
trong phổi căng lên, dưỡng khí được hít vào máu, chất đường được rót vô máu
nhiều hơn, máu dồn ra các bắp thịt, bắp thịt co lại, sẵn sàng hành động. Nếu
hành động bị chặn, các năng lực vừa huy động mà phải kìm hãm không dùng tới nó
trở lại phá phách làm ta khó chịu, cáu kỉnh. Ta cáu kỉnh, giận dữ, thì các hạch
thượng thận bị kích thích, chất thận tuyến tố (adrénaline) tiết ra nhiều, huyết
áp cao, mạch máu căng v.v… Cơn giận là cái gì độc hại; giận không nên nuốt;
nuốt giận, tất sinh ra bệnh hoạn. Nổi tam bành lên mà được đập nhau một trận
mới hả. Nhưng đập nhau thì nhiều khi hỏng việc hết, cho nên để cứu vãn tình vợ
chồng trong gia đình người ta đập tạm bát, đĩa, ly, cốc v.v…
Cái cần lúc bấy giờ là cần một hành động mạnh, thật mạnh, có tác dụng
giải tỏa. Những ràng buộc của cuộc sống trong xã hội văn minh không cho phép
chúng ta mỗi lúc mỗi bạo động, sự dồn nén làm phát sinh nơi chúng ta nhiều
chứng bệnh thần kinh. Bà Laura Archera Huxley nghĩ ra mấy cách chữa bệnh rất
ngộ. Bà mách chúng ta mua ở tiệm bán đồ thể thao một trái banh về treo sẵn
trong nhà, lúc nào có điều giận ai, có chuyện bực mình, cứ vô phòng mà đấm liên
hồi kỳ trận vào trái banh ấy. Bắp thịt co lại đòi hành động? Cứ cho nó hành
động. Chất thận tuyến tố kích thích? – Đập cho dữ vào, nó sẽ hết kích thích.
Đập banh xong, tâm hồn sẽ thư thái, đời sẽ tươi sáng. Bà L.A. Huxley lại mách
ta nhúng chân vào một thùng nước nóng, úp mặt vào một thau nước thật lạnh, rồi
cứ thế thổi vào thau nước cho nổi bong bóng lên, càng uất ức càng thổi. Không
thét mắng những lời cộc cằn vào kẻ thù, hãy thổi xuống nước, bong bóng sẽ nói
thay lời, tha hồ nói mà không xúc phạm ai, không gây đổ vỡ. Nếu uất hận quá,
vừa thổi bong bóng vừa khóc cũng được, càng hay.
Chửi là một biện pháp đại khái giống như đấm trái banh, như thổi bong
bóng nước, vào những lúc cơ thể đòi hỏi phải làm một cái gì thật hung dữ mà
hoàn cảnh, quyền lợi, không cho phép làm như thế. Chỉ giống đại khái. Thực ra
thổi bong bóng so với chửi cũng như chửi bới so với đánh đấm chém giết. Có lẽ
nhờ hay chửi mà người bình dân Việt Nam bị thiệt thòi, áp bức, lại không mang
nhiều ẩn ức trong tâm hồn, có thể lập được quân bình tinh thần, bớt cay đắng.
Giữa bọn trẻ chơi ngoài đường, thỉnh thoảng có những cuộc xung đột không
cân sức, đứa lớn đánh, đứa nhỏ chửi; lớn càng đánh, nhỏ càng chửi. Vì yếu nên
phải chọn chửi. Nhưng chửi là phản ứng can đảm của kẻ yếu.
Nếu cả đôi bên mạnh yếu cùng thỏa thuận dùng chửi để thay thế cho cuộc
đấu lực thực sự, thì đó quả là khôn ngoan. Và dân tộc Việt Nam khôn ngoan đã sử
dụng chửi như một biện pháp giải tỏa, trau dồi nó thành nghệ thuật.
Thực vậy, xem truyện xem phim nước người, nhất là các nước Âu Mỹ thấy họ
đánh đấm nhau nhiều quá, dễ dàng quá, như thể trẻ con. Cứ có chuyện xích mích,
bên này văng qua một lời, bên kia văng lại một lời thô tục, thế là đánh nhau.
Nguyên do một phần bởi tính khí, một phần có thể bởi vốn liếng từ ngữ chửi rủa
của họ nghèo nàn quá. Trong cuộc chiến đấu bằng lời mỗi bên vừa tung ra mấy món
thì đã sạch kho hỏa lực rồi, cuộc chiến này bế tắc, đành phải leo thang lên
hình thức chiến đấu của đám tiểu nhân.
Trái lại, người Việt có thể kéo dài cuộc chiến bằng mồm rất lâu, có thể
tăng nó lên nhiều mức độ. Hơn nữa, chúng ta có những câu chửi dài, có vần, có
điệu, tiết tấu nhịp nhàng, âm thanh dìu dặt. Những câu chửi như thế có tác dụng
trấn ủy, làm nguôi dịu. Một cơn giận được đưa vào âm vận là đã chịu tuân theo
một thứ kỷ luật. Cũng như một niềm vui biểu diễn bằng khiêu vũ, một xúc động
được biểu hiện trong câu nhạc, câu thơ. Vui mà nhảy cỡn lên là cái vui hoang
dại đột ngột. Giận mà thét lên “Đồ chó!” là cái giận phá hoại, nhưng giận một
đứa trộm gà mà đã dông dài kể tội nó: “bắt con gà vàng khoan cổ, con gà nổ
khoan lông, nó nấu nồi đồng, nó nấu nồi đất, nó ăn lật đật v.v…” thì vần ấy
điệu ấy xoa dịu con giận, sẽ làm cho nó ngoan ngoãn, hiền lành. Trong tiểu
thuyết và ngoài xã hội chúng ta, có những người đàn bà hoặc tức hàng xóm hoặc
giận con cháu, ban đầu lồng lên thét chửi, rồi lần lần vừa chửi vừa chải đầu gỡ
tóc, vừa chửi vừa quét nhà, vừa chửi vừa lặt rau… Con giận cứ thế tự kết thúc.
Ở địa vị của một dân tộc mà người này có thể bới mả tam đại người kia,
chẻ xương róc thịt người kia, và ngược lại, hai bên được phép băm vằm lẫn nhau
thỏa thích hàng giờ mà rốt cuộc không ai sứt mẻ gì, ở địa vị như thế trông
xuống những dân tộc cứ hễ lời qua tiếng lại vài câu là xông tới đấm đá, đâm
chém nhau, chúng ta thấy họ sao mà nông nổi, rồ dại!
Không ai biết trong lịch sử tục lệ chửi bới đã tránh cho dân tộc ta được
bao nhiêu cuộc ẩu đả, bao nhiêu vụ lưu huyết, đã cứu được bao nhiêu ức triệu
nhân mạng. Thật đáng tiếc, vì chúng ta ước ao có chút ít số liệu rõ ràng trong
tay. Dầu sao, không còn nghi ngờ gì nữa: chửi bới, khi thực hiện một cách đứng
đắn, theo đúng tinh thần lề thói Việt Nam, khi hai bên tham dự đều biết tôn
trọng quy tắc của cuộc chơi, không bốc đồng xé rào tiến tới hành động, thì một
trận chửi có tác dụng thật tốt đẹp. Trong cuộc đụng độ ấy có mức độ ác liệt đủ
giải tỏa uất hận, đủ thỏa mãn những bản năng hung bạo trong người, mà khỏi gây
kết quả khốc hại. Cái chửi, nó như một cuộc chiến tranh trong đó đạn mã tử được
bắn thả cửa, nhưng bắn nhịp nhàng theo điệu nhạc quân hành. Bắn không để giết
người mà để xoa dịu cân não mình.
Chửi hay. Cái hay ở đó chăng?
Võ
Phiến, 4-1968
304Đen – llttm- sgtc
No comments:
Post a Comment