Đọc lại Kỷ Vật Cho Em
Trước
và sau thập niên 70, chiến tranh Việt Nam bùng phát dữ dội và đó cũng là hệ quả
tất yếu khiến hàng hàng lớp lớp thanh niên, sinh viên học sinh đến tuổi phải từ
giã sự nghiệp, sách vở, giảng đường để tham gia cuộc chiến với nhiều cách khác
nhau. Đó cũng là thời gian xã hội Miền Nam có nhiều biến động nhất: chiến tranh
lan rộng sâu tận thành phố, những cuộc biểu tình lớn nhỏ dưới nhiều chiêu bài,
khuynh hướng hỗn tạp, đã ít nhiều làm cho thanh niên tỏ vẻ hoài nghi về những hoài
bão, lựa chọn của mình. Và chính sự khủng hoảng chính trị, xã hội dẫn tới
một hiện tượng không thể phủ nhận: văn đàn Miền Nam xuất hiện những khuôn mặt
trẻ đầy bất ngờ, mới mẻ, phần nào làm mới sinh khí văn chương vốn dĩ bị che mù
bởi dòng văn học hiện sinh, bị lấn át bởi những đàn anh tên tuổi. Đó là những
Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, Nguyễn Bắc Sơn, Trần Hoài Thư, Hoàng Ngọc
Tuấn, Y Uyên, Vũ Hữu Định, Trần Thị Ngh… Công chúng, nhất là giới trẻ đã đón
nhận họ như đón nhận một luồng gió mới, một sinh khí mới trong dòng văn học
Miền Nam.
Thật ra luồng gió hay sinh khí mới kia cũng chẳng có gì lạ. Họ, những người trẻ
viết văn, làm thơ không mang kiểu cách buồn nôn, chán nãn xa lạ mà, họ viết bởi
cảm xúc chân thật bắt nguồn từ những gì xảy ra chung quanh, gắn liền với tình
cảm, đời sống: một chút nhớ nhung về mối tình thời trai trẻ “anh theo Ngọ về/đường mưa nho nhỏ” hay một chút
giận dỗi “nghe nói em vừa thi rớt Luật/môi trâm anh tàn héo nụ xa vời…rớt đi
Duyên, rớt để thương người”. Và lắm khi là ngông nghênh, ngang tàn
của người “lính thư sinh” sau những lần hành quân “mai ta đụng trận ta còn sống/về
ghé sông Mao phá phách chơi/chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm/đốt tiền mua vội một
ngày vui” và “xin cảm ơn một mái tóc mềm/mai
xa lắm trên đồn biên giới/còn một chút gì để nhớ để quên”. Và
một tiếng kêu não lòng, xé ruột của Y Uyên: “chiến tranh mẹ gì mà lâu dữ
vậy?”…
Những tâm tình bùi ngùi như thế lại được âm nhạc tiếp sức, đẩy lên một bậc
khiến giới công chúng càng yêu thích luồng gió mới kia nhiều hơn.
Rồi
theo trào lưu thơ phổ nhạc ngày càng thịnh hành, bất ngờ công chúng lại được
nghe trên đài phát thanh Sài Gòn, trong các phòng trà đô thành, các quán cà
phê: “em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại…xin trả lời mai mốt anh về…
anh trở về có khi là hòm gỗ cài hoa…” khiến mọi người ngơ ngác
hỏi: Linh Phương, tác giả bài thơ, là ai vậy? Hắn trong bưng làm thơ địch vận
hay trong nhóm phản chiến? Thần hồn và tứ trong bài thơ cứ bình-thản-nức-nở,
bình-thản-nghẹn-ngào, coi như không có gì ghê gớm. Rồi khi cái tứ đó đi qua
những cung bậc cao thấp của nhạc sĩ Phạm Duy, cộng với chất giọng của Thái
Thanh lại càng run rẩy, thê thiết hơn. Những năm tháng ấy, kẻ viết bài này chỉ
mới là anh sinh viên trong giảng đường, tình cờ đọc trên tờ nhật báo Độc Lập đã
thoáng giật mình! Càng giật mình hơn khi được biết Linh Phương viết bài Kỷ vật cho em trong lúc đang hành quân ở Chương
Thiện khoảng đầu năm 1970! Trong khi đó, những người bạn tôi đang có mặt trên
khắp bốn vùng chiến thuật lại cười ha hả từ những kbc có con tem anh chiến binh
bồng súng xông tới, phong bì lấm lem bùn đất, sờn rách: “… mình chắc mẩm hắn cũng là lính. Hắn mô tả tâm trạng, hoàn cảnh
sao đúng hoàn cảnh tụi mình quá trời. Mai mốt tụi mình có về trên đôi nạng
gỗ có về hòm gỗ cài hoa hay trên trực thăng sơn màu tang trắng… thì các cậu chớ có ngạc
nhiên, chớ có buồn! Đời trai chinh chiến mấy thằng sống sót trở về?”. Mấy
câu ngắn ngủn kia mãi ám ảnh tôi. Ám ảnh bởi vẻ lạc quan, coi sống chết như
chuyện có không của người bạn. Mà hắn đâu để mắt tới Ngũ uẩn giai không, hắn đâu biết gì về tâm kinh đâu ảnh hưởng gì về triết học Phật giáo?
Chẳng qua khi đối mặt quá nhiều với cái chết, luôn rình rập bên cạnh, không báo
trước thì con người ta chẳng còn buồn để ý đến nó? Cứ chờ đón nó một cách thản
nhiên như trong bài thơ Kỷ vật cho em của
Linh Phương.
Vào độ tuổi ra trận mạc ấy, hẳn ai cũng có người yêu, ít ra cũng em gái hậu
phương, thản hoặc một Dạ Lan từ trời cao thầm thì, chia sẻ với các anh mỗi đêm.
Ấy vậy nhưng khi em của Linh Phương hỏi: Em hỏi anh bao giờ trở lại thì nhà thơ cứ thẳng
đuột trả lời mai mốt anh về, có thể bằng nhiều
cách về khác nhau:
…Anh trở về hòm gỗ cài hoa
Anh trở về bằng chiếc băng ca…
…Mai trở về bờ tóc em xanh
Vội vã chít khăn sô vĩnh biệt…
…Mai anh về trên đôi nạng gỗ
Bại tướng về làm gã cụt chân…
Về bằng con đường nào thì thân thể thế hệ các anh không còn nguyên vẹn như lúc
ra đi. Họ đã chắc chắn như vậy, nên chi cứ tạo một tâm thế trong những tình
huống khắc nghiệt để em chuẩn bị đón
nhận những bất toại trong cuộc sống chỉ có khói lửa trước mặt!
Những tình huống Linh Phương đặt ra trong bài thơ là sự thường tình, vì tự cổ
kim các tình huống đó đã đến với mọi chiến binh, như trong Lương Châu Từ của
Vương Hàn:
…Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?
Nhưng sự “không trở về” của người xưa có vẻ nhẹ nhàng, thanh thản còn với Linh
Phương thì lại ưu uất, dằn xé tâm can:
Thì thôi! Hãy nhìn nhau xa lạ
Em nhìn anh ánh mắt chưa quen
Anh nhìn em anh sẽ cố quên
Tình nghĩa cũ một lần trăn trối.
Một sự chia cắt bi thảm, không phải lỗi ở nơi hai người, anh và em gây ra, mà
chỉ vì một viên đạn màu đồng và hàng
triệu viên đạn vô tình hay cố ý như thế trong giai đoạn máu lửa kinh hoàng bất
ngờ găm thẳng vào ngực, từ những tranh chấp về chủ nghĩa và quyền lực điên
cuồng!
Những bài khác trong tập Kỷ Vật Cho Em, giọng điệu thì bớt đi vẻ đau xót, bi
thương nhưng những cách nhà thơ đưa hiện tượng cuộc sống vào thi ca, thì bức
tranh nguệch ngoạc kia lại có vẻ tàn nhẫn hơn nhiều, dưới những góc cạnh khác
nhau trong xã hội chiến tranh. Chất thơ bớt đi vẻ nồng nàn sâu lắng, nhường chỗ
cho loại ngôn ngữ kể sắp lớp, như thể buổi sáng thức dậy đi ngang qua quảng
trường, bỗng thấy người ta trưng bày xác quân địch cụt đầu, mất chân, ruột gan
phơi tràn ra ngoài… với một cảm giác buồn nôn, ớn lạnh:
Có người vợ nào không tủi thân
Trước giờ sinh đẻ
Được tin chồng nằm xuống
Trận Đakto-Đồng Xoài-Bình Giã
Đức Cơ-Phù Cũ-Tam Quan
Có người mẹ nào không tủi thân
Khi đứa con đầu lòng mở mắt
Đã để tang cho bố.
(Làm vợ người cầm súng)
Càng kinh khủng hơn nữa, khi nàng góa phụ đã chấp nhận mọi cái giá phải trả,
thì sợi dây cuối cùng còn lại của tình yêu giữa chàng và nàng là đứa con trai
đầu lòng. Hẳn rằng đứa con trai ấy còn rất nhỏ, chưa biết giận hờn, chưa biết
yêu ghét, đầu óc sáng trưng như tờ giấy trắng. Vậy nhưng, vì những tai trời ách
nước giáng xuống, khiến nàng mất tất cả, đến nỗi ngày sinh nhật con nàng phải
tặng:
Mẹ cho con viên đạn AK còn ngời sáng
Mẹ cho con quả lựu đạn M.26 còn thơm mùi thép mới tinh
Mẹ cho con mảnh mìn Claymore nằm trong lồng ngực bố
vừa chết trận U Minh
Con ơi con!
(Cho đứa con trai đầu lòng)
Trên đời này hiếm có người mẹ nào hành động như vậy. Rất có thể người mẹ giữ
được tất cả các vật dụng vũ khí gây chết chóc kia, nhưng hành động và thái độ
tặng cho con những thứ giết người dã man ấy, nhân ngày sinh nhật, thì không hẳn
là hận thù chồng chất lên mãi. Nó mang tính chất tố cáo nhiều hơn. Cách dàn
trải ngôn ngữ liệt kê như trên, nhà thơ chỉ muốn phơi bày bộ mặt thật, tàn nhẫn
của hậu quả chiến tranh. Đó là tiếng gào bi thống, là sự phản kháng không cân
sức giữa một góa phụ hay nhiều góa phụ với chiến tranh. Họ biết rõ họ không thể
ngăn được cuộc chiến dừng lại, họ cũng không đủ sức trả thù. Và sự trả thù ngọt
ngào nhất là sự phản kháng bằng những hành động tưởng chừng phi nhân bản, nhưng
kỳ thực đó là tiếng kêu bi thương của loài người đang đứng bên bờ vực hủy diệt,
tàn sát phi nhân.
Tâm trạng não nề, chán ngán của tầng lớp thanh niên, trí thức thời kỳ ấy như
một đám mây u ám, cứ vần vũ mãi trên bầu trời, che lấp khoảng không gian không
xanh, không hồng. Họ chán ngán bởi cuộc chiến kéo dài khủng khiếp, tranh chấp
triền miên. Họ tuyệt vọng bởi ngày nối tiếp năm là bom rơi đạn nổ, sự bình yên,
niềm hạnh phúc như một miền mơ ước không bao giờ có thực: “Đại bác đêm đêm dội về thành phố, người phu quét đường dừng chổi
đứng nghe…”.
Hệ lụy của những tháng năm khói lửa triên miên là thái độ buông thả, thất vọng.
Họ hối hả sống, hối hả yêu, hối hả bấu víu mỗi sáng thấy thân thể còn nguyên
vẹn:
Tuổi trẻ tôi biết yêu và yêu rất vội
Sợ không kịp yêu đến ngày mai
Sợ chiến tranh còn dài
Đời người thì quá ngắn
(Giấc mơ màu đỏ)
Ngày xưa một mình chàng Kinh Kha qua sông Dịch với con chủy thủ trên tay và
vĩnh viễn không quay lại điểm xuất phát! Ngày nay, hàng ngàn Kinh Kha qua hàng
trăm sông Dịch như thế với nỗi băn khoăn ồn ào, hy vọng và thất vọng trộn lẫn.
Thoắt một cái đời thư sinh chuyển thành đời chiến binh, rồi phế binh: buổi sớm mai anh thay áo học trò/buổi sớm mai anh mặc đồ nhà binh,
chỉ một tích tắc, một chớp mắt chuyển dịch! Vậy là:
Thôi trước ngày anh vào lính
Hãy ngủ cùng em đêm nay lần cuối cùng
Hãy dã man trên thân thân thể con gái còn đẹp
(Trước ngày anh vào lính)
Chuyện dã man trên thân thể con gái còn đẹp giữa em và
anh trước ngày anh vào lính không phải là vấn đề tình dục, không phải là sự
trao đổi thân xác thông thường hay tệ hơn là bán buôn, mà chính là vội vã tranh
cướp lấy đời sống ngắn ngủi bởi cảnh ngộ đẩy đưa, bởi sống-chết khó lường/chỉ cần tích tắc.
Phải sống mãi trong những hoài nghi, thất vọng… cũng có lúc lóe lên chút niềm
tin, hy vọng. Họ tin ngày mai sẽ có hòa bình, ngày mai tiếng súng sẽ im, sẽ mở
ra những viễn tượng tươi sáng trên quê hương. Họ, những chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt sẽ nghĩ gì, làm
gì trong những ngày tươi đẹp mai sau?
Một ngày mìn định hướng không đặt
Lựu đạn không gài
Máy bay không bỏ bom
…Tôi vui mừng như lần cắp sách đến trường.
Nhưng đó mới chỉ là một ngày tạm yên tiếng súng. Còn mai kia, nếu hòa bình sẽ
đến trên quê hương khốn khổ này thì sao? Và Linh Phương đã vẽ ra:
Ngày với chuyến tàu suốt từ Sài Gòn ra Hà Nội
…Ngày em hân hoan mặc áo dài dạo phố
Ngày em hân hoan ngồi trong rạp Rex xem phim lãng mạn ái tình…
…Ngày tôi không còn mặc đồ quân nhân ở nhà nuôi vợ đẻ.
(Trong ngày hòa bình)
Câu thơ như câu nói giữa hai người với nhau. Chất thơ mất đi và thay bằng ngôn
ngữ đời thường để tỏ bày một ước vọng nhỏ nhoi, như thể tiếng kêu cứu của những
kẻ bị đắm tàu giữa biển khơi mênh mông, trùng trùng sóng dập!
Đó cũng là khuynh hướng chung của những người làm thơ trẻ thuộc thế hệ anh.
Những Nguyễn Bắc Sơn, Vũ Hữu Định hay Đinh Trầm Ca, Nguyễn Dương Quang… đều có
cùng một tâm trạng như vậy, và bày tỏ niềm hy vọng, mơ ước mong manh như vậy,
để cuối cùng chút ánh sáng ở cuối đường hầm vẫn cứ lùi xa tít và tắt ngấm đâu
đó trong các trận chiến ngày càng tàn khốc hơn.
Hỡi hòa bình lạ mặt yêu dấu
Sao người cứ kiêu hãnh như giai nhân
Hoài hoài lỗi hẹn
Khi tuổi xuân chúng tôi chỉ có một lần
Làm sao chờ được trăm năm
Mà đến trăm năm còn gì xương máu anh em
(Hà Thúc Sinh – Xin hãy đến Hòa Bình)
Cảnh chiến tranh tàn khốc đã biến các nhà thơ trẻ thành những người cà khịa,
ngông nghênh, bất cần đời nhuốm chút ngang tàng dễ thương, trở thành những bài
thơ khẩu khí, ví như Nguyễn Bắc Sơn:
Bốn chuyến di hành một ngày mệt ngất
Dừng quân đây nói chuyện tiếu lâm chơi
Hãy dựa gốc cây hãy ngắm mây trời
Hãy tưởng tượng mình đi picnic
Kẻ thù ta ơi các ngài du kích
Hãy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo
…Lúc này đây ta không thèm đánh giặc.
(Nguyễn Bắc Sơn – Chiến tranh Việt Nam và tôi, nxb Đồng Dao, SG 1971)
Họ ăn nói, sử dụng ngôn ngữ thơ một cách thoải mái tự do, như giỡn như đùa,
không vì chính kiến, không lý tưởng này nọ mà nếu như ở một thể chế khác, các
nhà thơ không thể có gan trời như thế!
Còn một Phan Xuân Sinh thì:
Hãy rót cho ta thêm cốc nữa đi
Ngồi với bạn hôm nay làm ta hứng chí
Chuyện ngày mai có chi đáng kể
Dẹp nó đi cho khỏi bận tâm
Thằng lính nào mà không rét lúc ra quân
Khi xung trận mà không té đái
…Uống với bạn hôm nay ta phải uống thật say
Để không phải còn nhìn nhau hận thù ngun ngút
(Phan Xuân Sinh – Uống rượu với người lính Bắc phương)
Có trời mới giải thích tại sao người lính Bắc phương lại dám ngồi “đối ẩm” với
người lính phương Nam? Họ đã nhận ra điều gì trong những ngày điên cuồng bắn
nhau? Họ đã nhận ra điều gì trong câu khẩu hiệu: “Nhắm thẳng đầu thù mà bắn”. Là
anh em với nhau rồi sao? Là máu mủ ruột thịt rồi sao? Hay là chiến tranh làm họ
mệt mỏi, buông xuôi là hệ lụy của một thái độ, một chọn lựa từ ý thức trong
sạch?
Có thể đó là thái độ bất cần. Nhưng thái độ bất cần đó đâu hẳn là tính vô kỷ
luật trong quân đội? Cũng chưa phải là tinh thần phản chiến đang bắt đầu nhẩn
nha, đậm đặc trong đầu óc họ? Mà chỉ là sự bày tỏ cách nhìn, cách nghĩ của tuổi
trẻ về cuộc chiến tranh quái gở phi lý kia. Tuổi trẻ Bắc Nam can cớ chi mà thù
hận nhau? Tôi nhớ rất rõ một truyện ngắn của Lê Văn Thiện trên tạp chí Bách
Khoa trước 75, có tựa “Xuất ngoại bằng trực thăng võ trang” có đoạn viết đại ý:
Không biết Quốc Vương Shihanouk có ngồi ỉa như tụi mình?… Sao cứ bắt ra trận
đánh nhau hoài? Muốn tranh bá đồ vương thì lãnh tụ hai bên chọn bãi đất đẹp,
hai người tha hồ quần thảo, kẻ thắng thì được, ai thua thì mất hết. Sao lại bắt
dân đen phải hứng chịu?
Nếu chỉ có vậy thì đâu có E.M. Remarque, đâu có E. Hemingway hay một P. Gallico
với những tác phẩm viết về chiến tranh hay đến vậy? Và nếu như thế thì
làm gì có một Phan Nhật Nam với Mùa Hè Đỏ Lửa, Thế Uyên với Tiền Đồn, Y Uyên
với Bão Khô, Bảo Ninh với Nỗi Buồn Chiến Tranh hay một Kiều Mỹ Duyên với Chinh
Chiến Điêu Linh…?
Chiến tranh thật quái gở, bởi không do nhân dân chọn lựa, không phát khởi
từ ý thức của nhân dân, mà từ những chủ nghĩa quái gở, từ những quyền lợi của
kẻ cả khống chế.
Nhìn nhận được chỗ phi lý kia, lớp người trẻ tuổi bị bắt buộc tham chiến bắt
đầu chửi đổng. Chỉ là chửi đổng sau những cuộc hành quân, chửi đổng trong mấy
ngày phép được về thành phố… và rồi bật ra những câu “không thể tha thứ” đối
với quân kỷ, chủ nghĩa…
Dăm thằng đánh trận. Dăm thằng chết
Chỉ sót mình ta cứ sống nhăn
Đù má nhiều khi buồn hết biết
Lo mãi sau này cụt mất chân
Mấy tháng hành quân chưa ngơi nghỉ
Tóc tai dài thượt giống người rừng
Kinh Kha vác súng qua Dịch thủy
Thề chẳng trở về với tay không
Chiến hữu ta toàn dân thứ dữ
Uống rượu say chửi đổng dài dài
Bồ bỏ. Tức mình xâm bốn chữ
“Hận kẻ bạc tình” trên cánh tay
Chiều qua sém chết vì viên đạn
Du kích bên sông bắn tỉa hù
Cũng may gặp phải thằng cà chớn
Thấy mặt ta ngầu bắn đéo vô
Nhớ hôm bắt được em Việt Cộng
Xinh đẹp như con gái Sài Gòn
Ta nổi máu giang hồ hảo hán
Gật đầu ra lệnh thả mỹ nhân
Mai mốt này đây ra trận tuyến
Gặp ta em bắn chớ ngại ngùng
Cuộc chiến đâu dành cho nhân nghĩa
Đời nào đạo lý với bao dung
(Hành quân)
Trích trọn bài, bởi tôi nghĩ, đây là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Linh
Phương, và có thể là tiêu biểu cho cả thế hệ anh trong cuộc chiến tranh không
có lối thoát. Hẳn nhiên sẽ có người không đồng tình theo cách nghĩ của tôi, vì
trong hàng ngàn bài thơ của hàng trăm nhà thơ thời kỳ đó cũng hay, cũng tiêu
biểu? Đồng ý. Tuy nhiên cái hay cái tiêu biểu của những bài thơ kia là những
cảm xúc, những phơi bày ở khía cạnh khác; trong khi hành quân, Linh Phương đã
phác họa thành công khuôn mặt méo mó của thế hệ anh, đầu óc méo mó với cái nhìn
cũng méo mó và chân thực không kém của hàng triệu người hai bờ Nam Bắc phải cúi
đầu, nén lòng cầm súng.
Nơi xứ người giá rét, đọc được tập thơ này, bỗng nhói đau một thời kỳ đen tối
hiển hiện trước mặt và không thể dằn lòng, bèn thốt lên vài tiếng, vẽ vời vài
dòng về Linh Phương về tuổi trẻ và chiến tranh Việt Nam kéo dài, tàn phá mọi
nhân phẩm đạo đức, đảo lộn mọi trật tự xã hội suốt hai mươi năm trời: Hai mươi năm nội chiến từng ngày. Và để lại một gia tài
“di căn mụt nhọt” cho nhiều thế hệ tiếp theo!
Nguyễn
Lệ Uyên
(Seattle, đầu đông tuyết phủ mịt mù)
Trích Trang
sách và những giấc mơ bay – tập I (Thư Ấn Quán, 2010)
Tiểu
sử Linh Phương
Tên
thật Đoàn Văn Nhơn. Sinh năm 1949 tại Sài Gòn. Cha người Phong Điền (Thừa Thiên
– Huế). Mẹ người Cần Thơ. Trưởng nhóm văn nghệ Hoa đông phương (Sài Gòn).
Nguyên thư ký tòa soạn tuần báo Tinh Hoa Nữ Sinh phát hành tại Sài Gòn năm
1967. Trước 1975 là quân nhân thuộc Tiểu đoàn 6 Thần Ưng Cảm Tử Thủy Quân Lục
Chiến . Đang phụ trách blog văn học Hoa phương đông, qui tụ nhiều nhà văn nhà
thơ trong và ngoài nước
Tác phẩm đã xuất bản:
– Thơ tình Linh Phương (Thơ, Ngựa Hồng xb, 1967)
– Kỷ vật cho em (Thơ, Động Đất xb, Sài Gòn,1971, Thư Ấn Quán tái bản tại Hoa Kỳ
2006)
– Lời tự tình phương Đông (Thơ, Đồng Nai xb, 1995)
– Lời ru của gió (Thơ,Thanh Niên xb, 2000)
– Tuyển tập Linh Phương (Thơ, Phương Nam xb, 2006)
Nguồn: https://hung-viet.org/
304Đen
– Llttm -dsc
No comments:
Post a Comment