THẰNG NGƯỜI CÓ ĐUÔI
– Tên
chị là gì?
– Thưa em tên Mợ
– Mơ gì? Mộng mơ hay quả mở
– Tùy, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu…
– Quê quán ở đâu vậy?
– Em ở Thạch Thất, Hà Tây.
– Chị công tác ở cơ quan nào?
– Thưa, ở ty Văn Hóa Thông Tin Hà Sơn Bình.
– Chắc chưa vào đảng…?
– Vâng, em mới phấn đấu ở cương vị đoàn…
– Chị lập gia đình chưa?
– Em chưa lập, nhưng đối tượng thì có rồi!
– Các cụ nhà ta còn cả chứ?
– Vâng, thầy u em vẫn còn.
– Gia đình được mấy anh chị em nhỉ?
– Thưa, được tám cả thảy…
– …
Một bản sơ yếu lý lịch? Một cuộc hỏi cung ngắn? Tôi thò đầu ra khỏi gầm ghế, hé
mắt nhìn về cuối toa xe lửa. Cửa vẫn còn mở có nghĩa là đội công an, thuế vụ
trên tàu chưa làm việc, nếu không họ đã đóng chặt hai đầu toa cho hành khách
không có đường đi lại hoặc tẩu tán hàng hóa.
– Chị
đi đâu mà hành lý cồng kềnh thế này?
– …
Bỏ mẹ
rồi, đội kiểm tra cơ động đặc biệt! Tôi rụt đầu vào gầm ghế, cay đắng lo cho số
phận hai bịch thuốc lá sợi của mình. Hôm nay thứ sáu, nhưng 15 tây, 8 âm lịch:
ngày lành. Tử vi tôi tháng này không xung với tuổi, trong năm không có sao Địa
Không, Địa Kiếp ghé thăm để mà lãnh tai họa, trộm cắp.
Chuyến
tàu khởi hành chậm hai tiếng đồng hô như lệ thường. Nếu chả may nó chạy đúng
giờ thì người ta còn coi như báo trước một điềm gở… Khổ quá, tôi đã tham lam
đóng hết hàng, chỉ chừa lại số tiền vừa đủ ăn đường và nộp hụi chết cho cánh
công an thuế vụ thường trực trên tàu, đám đột xuất này mà sờ đến thì chỉ còn
nước bỏ của chạy lấy người.
Tàu
lắc lư chạy trong đêm. Hành khách ba miền của bao nhiêu âm ngữ đã đồng tiếng
ngáy. Ngay sát mặt tôi, dưới gầm ghế là hai bàn chân giao chỉ với ngón cái xòe
ra, dính đầy bùn đất của anh nông dân vừa lên vất hai bao sắn qua cửa sổ. Trên
ghế đối diện, thuộc về giai cấp khác, mấy ông cán bộ đi công tác với cặp táp,
điếu cày đang ép nhau ngồi. Thỉnh thoảng, những khi tàu lắc mạnh, các vị lại
xón cho giai cấp dưới cùng tí nước điếu. Hai con bé con tóc khét nằng, áo bà ba
đen, quần đùi, đang ôm lấy bao than củi ngủ, chả hay biết nước thánh cam
lồ chảy tong tỏng trên lưng mình. Trên đâu tất cả là mấy ông con trời bộ đội
đang nhịp nhàng kẽo kẹt thượng tọa trong võng. Chú lính treo gần tôi nhất đầu
ngoẹo ra khỏi võng ngủ, môi trề ra, nước dãi nhểu nhảo chảy xuống bụng chị có
con mọn đang tốc áo cho con bú ngáy khò khò trên ghế.
Trời
ơi, muốn ra được cũng thật khó, tôi gồng sức đẩy hai bàn chân chắn ngang mặt
mình mà không được. Sau mỗi cố gắng, anh nông dân lại cho tôi một cái đạp hoa
cả mắt. Đau vì bị đạp thì ít, mà ức vì bị đèn nén thì nhiều, tôi nghiệm thấy,
quy luật đấu tranh của xã hội cũng đúng cả dưới gầm ghế này. Nhưng thôi, tất cả
đều đã mệt, cần được ngủ để có sức chiến đấu cho lúc xuống tàu.
Tỏng
tỏng… róc rách… Tàu chạy vào khúc xuôi gió thì vẳng lên tiếng nước chảy, rồi âm
ấm ở đầu. Nghiến răng chịu cho cái chân ghế cứa vào cổ, tôi ngỏng đầu lên để
nhìn. Trời đất, suối nguồn thiên thai được bắ’t từ cái cần câu cong vút của
thằng bé đang nằm nghiêng trên ghế ngậm ti mẹ. Xung quanh không ai để ý.
Tôi
rút tay, vuốt vuốt tóc rồi đưa lên mũi ngửi. Cũng may, trẻ nhỏ nó chưa ăn mặn
nên tè ra không khai lắm, chứ như cái mùi thường trực bốc lên từ cầu tiêu đầu
toa thì bỏ mẹ. Hành khách đi xe lửa Thống Nhất chả bao giờ bị cảm mạo, trúng
gió cũng là nhờ cái mùi này chủng ngừa trước.
– Chị
có tranh thủ mang ít hàng để cải thiện không ?
– …
Cái
giọng lấy cung kia lại quái ác nổi lên, tôi đã tỉnh ngủ, nghe rất gần, ngay
khoang bên cạnh. Khổ nổi không làm sao chui người ra đuợc để còn biết đường mà
chuồn. Thôi thì trăm sự đành cậy nhờ cây đèn bão tù mù này. Giá có ngọn gió nào
thổi tắt nó đi thì đỡ biết mấy.
Lúc
vừa nhảy lên tàu tôi đã chọn ngay cái toa toàn các khuôn mặt hao hao đói của
cán bộ, ngô nghê chất phác của nông dân này để trao thân. Tôi định mập mờ đánh
lận con đen giữa đám người lương thiện hòng trốn tránh các toán kiểm tra bất
ngờ. Tôi đã mừng rơn khi những “thành phần cơ bản”, chủ nhân của toa tàu giương
cặp mắt tò mò, đố kỵ, sợ bóng sợ gió nhìn mấy bà “ngụy” đi thăm nuôi chồng con
cải tạo ở miền Bắc về rồi từ chối không cho họ ngồi ké.
Tuy
đã đuợc thực tế phũ phàng của những trại tù, cuộc sống đầy tương lai của miền
Bắc XHCN nhuộm xanh lè cả mặt, nhưng mớ áo quần bằng vải tốt, đống guốc dép,
đầu tóc khác lạ, nhất là thói quen nhìn lại chỗ ngồi, phủi phủi vài cái rồi mới
e dè đặt mông xuống của mấy bà khiến cho hai miền không thể lại gần nhau được.
Tôi tiếc rẻ vận cổ nhìn tiễn theo mấy cái gót chân thon nhỏ, dính chút bùn
đi tìm bến đậu khác.
Nhưng
đời là một cuộc chiến đấu lớn, phải biết tiêu diệt những tình cảm phù phiếm
trong mình để đi tới đích. Than ôi, những hy sinh lẻ tẻ đó cũng không cứu được
hai bao hàng, đám con chiên hiền lành kia cũng không giúp tôi được chút gì, cái
mánh mung của tôi đã hại tôi, chuyến này thì tiền mất tật mang rồi. Không còn
cách nào hơn, tôi đành dọn mình, chuẩn bị đón tai họa sắp tới. Trong bóng tối,
dưới gầm ghế, bên cạnh hai bàn chân chỉ chực đạp vào mặt với mùi khai của nước
tiểu, tôi chợt nhớ đến bài hát của Trịnh Công Sơn “Nơi
đây tôi chờ… nơi kia anh chờ… ” để được ngồi trên “…chuyến xe qua ba miền…”.
Phải rồi, bên đây tôi nằm, bên kia em nằm, cũng chuyến xe qua ba miền. Cái bậc
nghệ sĩ họ thật giàu tưởng tượng và lãng mạn.
– Rụt
chân lại !
Tôi
hét to, cấu mạnh vào chân anh nông dân. Một cái đạp tương xứng với cái cấu tung
vào mặt tôi nhanh nhạy như phản xạ co giật của con ếch khi bị truyền điện. Anh
ta cằn nhằn trong miệng rồi tiếp tục ngáy.
– Xê
ra cho người ta đi… tiểu !
Không
dám cấu nữa, tôi chỉ biết, cũng cốt ý cho đám công an bên cạnh nghe thấy để hợp
pháp hóa việc bỏ đi của mình. May làm sao anh chàng nông dân trở mình đổi thế
nằm, hai hòn đá chắn cửa hang rụt lại, tôi vội nhoài người ra, đứng dậy leo
trèo qua đống thịt ngổn ngang nằm kín lối đi để ra ngoài. Đứng trong cầu tiêu
một lúc cho vừa đủ thời gian tiểu tiện, tôi hé cửa nhìn ra. Toa tàu hoàn toàn
yên tĩnh, chỉ có gió lùa ở hai bên cửa sổ, tiếng bánh sắt nghiến xuống đường
rầy.
Quái
lạ, công an biến đâu hết rồi ? Đánh bạo, tôi mò lại gần. Hai bên thành toa võng
giăng kín thành hàng, đưa đẩy. Hành khách trên ghế gật gù ngủ. Chả có bóng áo
vàng nào hết! Tôi nằm mơ chăng ? Rất có thể vì dân chạy hàng bọn tôi suốt ngày
đêm bị rình rập, phải đề phòng, trốn chạy nên riết rồi méo mó nghề nghiệp, nó
theo cả vào giấc ngủ. Cứ sống với cái nghề này có ngày vỡ tim mà chết. Tôi đứng
tựa lưng vào thành ghế, định thần lại. Chị có con mọn đã ngã choãi lên người
tay thiếu úy trẻ để ngủ, vú vê bày thõng thượt. Đứa con lọt vào kẽ nách mẹ,
ngỏng cổ mân mê cái đầu tí.
Chả
biết họ có chồng vợ gì không, nom chị ta vẫn còn trẻ, già độ hai ba năm về
trước có ai động đến tí của “trời cho” đó sẽ bị nhảy lên đùng đùng tru tréo
chửi. Người thứ tư trên ghế, một ông cụ già râu tóc lưa thưa, nghiêng người cho
đủ chỗ ngồi, tay bám với lên thành ghế, đầu cúi gục xuống gần ngực chị có con
mọn gật gù ngủ. Bao nhiêu mật ngọt lòng thòng rỉ từ miệng chú lính trên võng,
cái đầu ông hứng hết. Ba ông cán bộ tóc điểm muối tiêu, áo sơ mi trắng cọc tay,
khư khư ôm cặp táp trong lòng đang nhịp nhàng lắc lư trên ghế đối diện. Ngay
trong giấc ngủ họ cũng có cái vẻ “nhất trí” như khi làm việc.
Tàu
sắp đến ga Nha Trang, vùng đất bão lửa đối với dân buôn chuyến. Chỉ còn một
ngày đường nữa những sứ giả nguyên thủy của CNXH sẽ đổ bộ vào Saigon, thành phố
đang trên đường cải tạo để trở về với miền Bắc, với CNXH. Tôi cúi xuống nhìn
vào gầm ghế. Hai bao hàng vẫn ngủ yên trong đó. Cái bào thai đã đi được chín
tháng chín ngày. Cầu trời cho nó được mẹ tròn con vuông. Khoang bên cạnh cũng
toàn các khuôn mặt trong biên chế, những lá bùa dán đè lên bản mặt “bất chính”
của tôi. Đừng rẻ xuống ga lẻ dọc đường, bỏ tôi côi cút một mình nhé, hỡi các bạn
yêu dấu.
Tôi
sẽ chi viện cho miền Nam ruột thịt ít sợi thuốc lá vàng, do chính tay vợ con
các bạn trồng. Những ông ba tàu chợ lớn với kỹ nghệ làm giả tuyệt hảo, hơn hẳn
nền đại công nghiệp XHCN sẽ vấn thành những điếu thuốc CAPSTAN thẳng thớm, đẹp
đẽ trong hộp carton giấy bóng kính để các bạn trầm tư, đắn đo, quyết định
tốn kém, mang ngược về miền Bắc làm quà cho anh em bè bạn.
Một
cặp trai gái vẫn còn thức, họ ngồi nép vào nhau, thỉnh thoảng trao đổi những
cái nhìn. Gã trai với cây đàn ghi ta treo trên đầu, tóc dợn sóng, có dáng dấp
của một vĩ nhân tỉnh lẻ, ông chủ hiệu may, hiệu chụp ảnh, một bậc văn hóa lớn ở
phố huyện ( ?) không ; gã có vẻ là anh đội trưởng đội chiếu bóng huyện hơn là
những vị kinh doanh thẩm mỹ vì cái kính râm nội hóa cài khéo ở ngực, áo sơ mi
trắng loại vải không pha ny lông, quần kaki xanh mua phân phối, ở cổ tay thiếu
cái đồng hồ. Cô gái ngồi bên cạnh tuổi chừng đôi mươi, tóc dài, hoe màu nắng
cháy. Khi cô ngước mặt lên nhìn tôi thì trời đất ơi, một trang tuyệt sắc giai
nhân. Đôi mắt có đuôi, mở lớn hiêng hiếng xếch đang cười lăn tăn. Mũi cô thon
nhỏ, thường tìm thấy nơi tượng Đức Mẹ hoặc trong hình thiếu nữ e lệ in trên
băng, đĩa vọng cổ. Cặp môi cũng chúm chím cười như mắt, phơn phớt hồng, nổi
trên miền da trắng. Những đường nét, màu sắc đó được ướp trong vẻ hồn nhiên
tươi tắn của cô gái mới mập mờ linh cảm về nhan sắc của mình. Toa tàu như tỏa
mát hương sen, tôi ngó vội xuống quần áo của mình, lúng túng dấu mấy ngón tay
dắt kín đất đen ở kẽ móng. Trong phút chốc tôi quên bẵng hai bịch thuốc lá, mũi
tôi điếc với mùi khai, mắt tôi mù với thân thể nếu được phơi bày ra hết sẽ diệt
dục trai tráng của thiếu phụ có con mọn bên cạnh, tôi ngây người như đười ươi
giữ ống chiêm ngưỡng cô gái. Gã trai cảm thấy bị hao mòn mất mát bởi đống tình
si chảy nhão nhoẹt trước mắt mình bèn đưa tay kéo cái vạt áo hở của cô gái, ra
điều hoa đã có chủ. Gạt nhẹ tay gã ra, cô sửa lại thế ngồi rồi thẹn thò liếc
tôi. Gã trai húng hắng họ
Như
để chạy đua vũ trang với tôi, khẳng định với cô gái, gã xoay hẳn người lại, cặp
mắt nhừa nhựa la liếm lần trên gò má hồng, bò quanh miệng, rồi chui xuống cổ
cô. Cảm thấy gã sắp trườn vào lòng người đẹp đến nơi, tôi “e hèm” đánh tiếng,
quay mặt đi chỗ khác. Sự buồn giận vô cớ chợt xâm chiếm lòng tôi. Hương hoa thế
kia dãi gió dầm mưa làm chi trên chuyến tàu này. Vẻ đẹp mong manh bên cạnh sự
lố bịch. Vâng, người là hoa của đất, là bà chúa của thiên nhiên, bao nhiêu cuộc
đời mới dâng hiến một khuôn mặt đẹp, cũng chỉ đẹp trong tích tắc, một lần phát
hương rồi trơ mình ra cho cuộc sống chìa hàm răng vẫu thô lậu nghiền nát.
Chỉ sau lời tuyên bố ngắn ngủi của đồng chí chủ tịch xã kiêm chủ hôn, sau ba
năm sống không có ca nhạc, ti vi chiếu bóng đêm, người đẹp ngồi kia sẽ biến
thành cái máy đẻ, con đường đi đến thiếu phụ sau lưng tôi sao mà gần. Quần
xanh, áo trắng mới tinh khôi, tôi nổi giận với cả sự ăn diện của cô gái. Ở xã
hội này mỗi khi muốn chứng tỏ “Tôi đi chơi “, “Tôi làm đẹp “, người ta không có
chọn lựa nào khác ngoài màu trắng để tách mình ra khỏi màu nâu lam lũ với đất,
màu tím than đánh lẫn với dầu máy, màu áo lính nhuộm xanh cả đất nước. Từ đồng
chí Tổng Bí Thư trên diễn đàn đại hội đảng, chú cai ngục hỏa lò Hà nội hai tay
đút túi quần bước vào quán phở, cho đến cặp trai gái đi dạo quanh hồ Hoàn Kiếm,
ai ai cũng chỉ một màu áo trắng. Cái màu trắng đẹp đẽ thanh khiết bị lạm dụng,
bị cưỡng hiếp trở nên nhàm chán, làm nhòe nhoẹt các khuôn mắt đời vốn đa dạng,
biến nó thành một thứ đồng phục ngớ ngẩn.
– Mặt
mũi không đến nỗi nào mà ăn mặc bẩn thỉu như mọi rợ…
Gã
trai thì thầm với cô gái. Cô ngước mắt nhìn tôi. Họ cùng cười với nhau.
– Chị
đã mệt chưa ? Cứ ngả lên người tôi mà nghỉ… ?
Gã đề
nghị, ngồi lấn vào cụ già đang ôm cái tay nải bên cạnh để nhường chỗ. Tôi ngờ
ngợ, dỏng tai chờ đợi.
–
Không. Cảm ơn anh em còn ngồi được.
Cái
giọng “lấy cung” khi nãy ? Tôi nhìn chăm chăm vào mặt họ. Cô gái ngượng ngùng
quay mặt đi chỗ khác. Gã trai nghĩ tôi là chướng ngại cản trở dịp may chờ đợi
đã lâu nên lừ mắt hằn hộc xua đuổi. Thấy địch thủ vẫn không nhụt chí, chả cần
bóng gió xa xôi, gã ném thẳng
vào mặt tôi câu chửi :
– Chỉ
có đồ vô văn hóa mới thò mõm vào việc người khác!
Thôi
đúng rồi, chả có Công An nào hết, tôi cũng không nằm mơ, cũng không có ma quỉ
gì quấy phá, anh bạn trẻ ngồi trước mặt chính là tác giả bản “hỏi cung” khi
nãy. Tôi sờ lên túi áo ngực. Trong cuốn chứng minh thư (cũ) của Công An
cấp, ngoài tên tuổi, địa chỉ, quê quán, đã can án lần nào chưa, còn những mục
về cha mẹ, vợ con, còn sống hay đã chết… Tôi nhớ đến những lúc mới làm quen,
người ta cũng hỏi và trả lời đầy đủ những điều cần thiết trong một bản sơ yếu
lý lịch. Hỏi như một thói quen, nhiều khi chả để làm gì và sau đó ai đi đường
nấy. Thói quen méo mó đó ngấm sang cả địa hạt yêu đương.
“Nơi
em về trời xanh không em… ” Bên này vĩ tuyến 17 không có một câu hỏi thơ mộng,
lãng mạn như vậy, còn các Vũ Hoàng Chương, Khái Hưng, Hàn Mặc Tử… đã bị đánh
bật rễ khỏi người đọc, gom lại trong cái nghĩa địa văn hóa cổ, le lói trong ký
ức người già. Các tay “yêu” lừng lẫy một thời vẫn còn đấy, nhưng đã biến thành
Xuân Diệu Xuân Xang Xuân… Tóc đỏ.
Người
ta đã tiêu thổ kháng chiến đến cả yêu đương. Nói đến “yêu” cũng phạm húy, phải
gọi là “tìm hiểu”, người yêu là “đối tượng tình cảm” (đối tượng đoàn, đối tượng
đảng, đối tượng của pháp luật ). Hôn nhân được xây hào đắp lũy thành “lập gia
đình”. Chữ “chàng” và “nàng” được cách mạng hóa thành những chữ “anh”, những
chữ “chị”, những “gã”, những “hắn” trong văn học hiện hành. Người ta lập pháp
hóa cả tình yêu, vớ vẩn có thể bị qui là “quan hệ bất chính”, “tác phong thiếu
lành mạnh”. Đa sầu đa cảm, yêu lăn yêu lóc cả trong nhạc lẫn ngoài đời như
ông Phạm Duy dám đi cải tạo không có ngay về.
Tình
yêu không được thi ca ấp ủ, dẫn dắt, hướng thượng, thè lè đi ngoài đường trong
những dịp quốc khánh, hội hè đông người để sờ mó, gỡ gạc lẫn nhau, “hủ hóa” với
nhau trong nhà kho công sở, hoặc nếu đúng đắn nghiêm chỉnh hơn thì đặt ra tiêu
chuẩn “3B” (Bôn sê vích, buồng ở, bia cung cấp) để “tìm hiểu”. Vì vậy những lời
yêu đương được mở đầu bằng “Đồng chí công tác ở cơ quan nào ?…”
Tôi
cười rú lên giữa toa tàu. Gã trai giật mình rụt vội bàn tay có mắt về. Một vài
hành khách luống tuổi tỉnh giấc, khó chịu nhìn thằng điên đang sắp ngửa leo qua
đống người nằm giữa lối đi để ra ngoài. Ông bạn trẻ cay cú tiễn với theo…
–
Thật đúng là đồ quái dị!
*
Chuyến
tàu đó đã dừng lại ở VN . Hai năm sau, trên chuyến tàu ở xứ tị nạn, tôi lủi
thủi đi lại một mình giữa toa tàu trống vắng. Lác đác vài cặp mắt xanh sợ gió
máy đóng kín cửa sổ, khụt khịt mũi nhìn con người dị hợm cuồng cẳng. Không được
chen chúc, hằm hè chửi bới nhau, không sợ cảnh sát bằng mấy con chó cảnh chạy
lăng xăng bên cạnh mấy bà già, buồn, tôi lẩn thẩn ước lượng số ghế trống rồi
nao lòng nhớ về những anh em bè bạn ở quê nhà. Xót xa với máu mủ mình chưa hết,
tôi còn thương lấy cả cái ngành hỏa xa của xứ người. Làm ăn như thế này thì lỗ
chết. Tôi quên béng đi mất, rằng tiền vé chém rất nặng, cuốc đường ngắn như thế
này nếu gửi quà về VN thì “chúng nó” lai rai quán cóc cả tháng trời. Tôi nhớ về
bên nhà như một kẻ thiếu nợ.
Con
thú hoang dã đã được thuần giống bằng trợ cấp thất nghiệp (cho mày đủ ăn để tự
giam mình trong chuồng, đừng có nhìn sang túi khác). Tôi đã “quên” chưa trả lời
gần chục cái thư, thư nào cũng giống nhau một điểm là ngắn (đỡ tiền tem). Chữ
nghĩa tiết kiệm rồi, lại còn bóng gió xa xôi, nhưng cái bóng gió xa xôi tài
tình đến độ lồ lộ hiện ra khuôn mặt dài ngoẳng vì đói vì chờ của ông bạn.
Trước khi đi, tôi đã dại dột bốc đồng “Tụi mày yên tâm đi, tao mà…” Cái “tao
mà…” ấy cho đến giờ này cũng chỉ tiến thêm được một bước thành “tao sẽ…” nhưng
tôi cũng không ân hận là đã cho họ ăn bánh thánh. Có vị bác sĩ nào đủ can đảm
nói với người bệnh đang hấp hối của mình “Xin thưa, tôi bất lực, tôi không có
thuốc…?”
Những
con tin của lương tâm ở bên nhà hiện đang sống bằng hy vọng. Tôi lừa họ chưa
đủ, họ còn phải tự lừa mình nữa thì mới sống nỗi. Méo mặt trả xong tiền tem,
cầm bằng mua xấp vé số, họ xoa tay yên tâm chờ đợi. Nhưng mấy chục cái đơn xin
việc của tôi mất hút không về, sổ vẫn chưa mở, lại tiếp tục “quên”.
Xuống
tàu phải mua ngay mấy tấm vé số! Tôi hạ quyết tâm cho lòng yên ổn (lại tự lừa
mình?) để còn nghĩ sang chuyện khác. Đúng lúc đó thì có tiếng “hèm” sau lưng.
Lại một cụ ông, cụ bà bản xứ với những câu hỏi đầy bác ái như cho kẹo trẻ con
về cảnh ngộ, sự hội nhập, phong cảnh quê hương? Tôi gắn vội nụ cười ba phải lên
môi, chuẩn bị sẳn mấy câu thuộc lòng để trả lời.
– Xin
lỗi, anh là người VN ?
Trời
ơi tiếng Việt! Tôi quay phắt lại ngó sững người bắt chuyện.
– …
– Xin
lỗi ông tôi lầm lẫn…
Người
đàn ông tuổi trạc bốn mươi, mắt sáng, ăn mặc buông thả lúng túng xin lỗi bằng
tiếng bản xứ, vẻ mặt đầy thắc mắc. Tôi hiểu ngay sự thắc mắc đó. Người Việt gặp
gỡ tình cờ ở ngoài đường ít khi nhìn nhận nhau vì họ không nói được tiếng Việt.
–
Không, tôi là người Việt!
Tôi
vội vã xác quyết.
– Anh
đi từ miền Bắc?
Người
đàn ông vồ vập. Tôi cũng nhận ra ngay cái giọng Bắc toang toác của ông tạ
– Dân
tỉnh nào đấy?
– Hà
Nội đây!
– Đây
cũng Hà Nội!
Khỏi
cần nói về nỗi mừng. Chúng tôi xoắn xuýt ôm lấy nhau mà hỏi chuyện. Chuyện bên
nhà, chuyện đi đứng, chuyện ổn định đời sống bên này… Khi đã cạn những vấn đề
thời sự (miếng trầu của đầu câu chuyện) trong tiếng xe xé gió, chúng tôi ôn lại
những ngày tháng xa xưa của Hà Nội. Như hai anh lính trẻ đi giữa Saigon, cái
phố huyện hẻo lánh giáp vùng thượng du Bắc Bộ của họ là nhất thì Hà Nội đối với
chúng tôi là vô địch.
Bát
phở Quyền ở ngã tư Phú Nhuận (té ra anh cũng đã nếm) thịt thà hùng hậu, nước
độc đáo thật, nhưng độc đáo trên cái nền nhòe nhoẹt đánh lẫn với nước hủ tiếu ở
Saigon, không “ác ôn” bằng phở Thìn đối diện đền Ngọc Sơn ngoài Hà Nội.
– Cậu
thử tưởng tượng xem, về khuya đi ngược gió đông, cách cả trăm thước mà cái
thằng phù thủy ấy nó dở nắp thùng phở lên có sởn gai ốc không hả…? Trong túi
không có tiền thì bỏ mẹ!
Tôi
cảm thấy hơi phở nóng phả ra từ mặt anh nên gật gù.
– Thế
mới là phở chứ những chỗ cậu kể đi sắp ngã vào nồi cũng không hay, bát phở bưng
đến trước mặt, mở mắt ra mới biết thì còn gì là phở?
Sau
khi đi một vòng các hàng quà Hà Nội, anh dắt tôi đến quán cà phê. Cà phê Hà Nội
cũng lại nhất. Anh kể ra tên mấy cái quán ít ỏi của đất Thăng Long với từng
“gu” của nó. Quán “Moka” phố Bùi Thị Xuân có cô con gái đẹp như Kiều, nhưng
không át được mùi thôm của cà phê ông bố. Quán “Nhỉ” phố Hàng Cá đậm đà chút
nước mắ’m nhỉ (nên mới gọi là ông Nhỉ). Quán “Nhân” đầu Hàng Gai có hương vị
huyền ảo khó tả, người không biết, tưởng ông đánh thuốc phiện khách… Anh thừa
nhận không gì sánh nổi hạt cà phê Ban Mê Thuột, nhưng Saigon có vẻ chưa để ý
đến nghệ thuật pha trộn. Cà phê nó có nhiều loại. Vối cho vị chát, mít cho vị
chua, và chè cho vị đắng. Nếu nhiều chè một chút, tí vối, tí mít thì thành gu ”
Moka”, hoặc đổi lại thì thành Nhân thành Nhỉ… Rốt cục tròn trịa, óng ả, no đủ
như hạt cà phê Ban Mê Thuột chỉ cho được mùi thôm choáng ngợp khi mở nắp
phin. Hết!
–
Nhưng hình như các ông Nhân, Nhỉ, Moka bây giờ pha hơi nhiều muồng muồng trong
đó thì phải…?
Tôi
rụt rè phát biểu. Anh xìu người, gãi đầu rồi cười. Dù sao cũng phải công nhận
anh là bậc thượng tọa trong cái đạo ăn uống này.
Hết
chuyện ẩm thực, chúng tôi xoay sang chuyện người đẹp. Trong địa hạt này anh
không dám cục bộ địa phương nữa vì biết tôi cũng đã chui qua cái xã hội lấy
chiêu bài “bình đẳng, giải phóng” để đẩy người phụ nữ xuống bùn, chui rúc trong
hầm mỏ, lẫn lộn ngoài chiến trường như nam giới. Bên cạnh đó là hệ thống tuyên
truyền đồ sộ, ăn ý như dàn nhạc giao hưởng luôn gõ trống thúc dục cho bắp thịt
nở nang của phái yếu trong bức tranh “ai nhanh tay cuốc bằng tay em…” trong
nhịp nhạc “niềm vui cô gái mở đường Trường Sơn” trong văn học.
Gái
Bắc Hà đã bị déformée biến dạng thành cái vai nở, thân hình trùng trục vì lao
động nặng.
– Cứ
nhìn thấy gái Saigon là tớ nghĩ đến chuyện ly dị…
Anh
đốt điếu thuốc, phả khói lên trần toa lim dim mắt cười. Tôi nói đến gái Cần
Thơ, Vĩnh Long, đất gạo trắng nước trong da thịt mơn mởn như xoài. Anh kể về
mấy chi. Huế nhu mì e ấp dưới mái tóc thề, ẩn dật kín đáo với làn da trắng
xanh, nhưng con mắt thì đi nhiều hơn chân, làm nhiều hơn tay, nói nhiều hơn
miệng, quả tim như núi lửa chỉ chực bất tử phun nham thạch.
– Ờ
lạ thật… Saigon là đất tứ xứ, nhưng bất cứ người ở đâu hễ nhập vào nó ba bốn
năm là thay da đổi thịt, biến thành dân Saigon. Đâu như Hà Nội mình, anh từ Hải
Phòng lên, sống cả hai chục năm, đẻ con ra vẫn lơ lớ giọng nước lợ, tính tình
tềnh toàng của dân thành phố cảng. Chị ở chiến khu về, sống đến mấy đời hộ khẩu
vẫn không tẩy được cái cách nhấm nước bọt đếm tiền. Sức cảm hóa, khả năng hội
nhập ở Saigon nó khác…
Tôi
lấy Huế để giải thích hiện tượng đó cho anh.
Nếu
chính anh có dời cư về đó ở, không phải hai chục năm mà bốn-sáu chục năm, cho
đến chết, chất Huế cũng không thắm vào anh được. Vùng đất nào đã được chọn làm
kinh đô trên một thế kỷ tự nó sẽ tạo nên bản sắc riêng biệt cho mình, hội nhập
sẽ rất khó…
Chúng
tôi cãi nhau như mổ bò (dấu hiệu đã thân thiện) về những vấn đề cả hai đều
không nắm vững, hoặc chả có gì đối nghịch nhau. Để đừng đập vào đầu nhau trong
lần gặp gỡ đầu, tôi lái câu chuyện trở về người đẹp Hà Nội. Thế là lại một màn
truy tìm các bóng dáng xưa. Để chứng tỏ mình cũng là tay cung kiếm một thời, những
con nhà nọ, em gái thằng kia… Câu chuyện trở nên gần gũi, tôi râm ran bồi hồi
với tên tuổi một vài người đẹp đã làm mình điêu đứng. Lần mò một lúc, anh dẫm
trúng phải cô em vợ tôi ở phố Hàng Ngang. Người đồng hành, đồng hương càng trở
nên thân thiết. Tôi như thấy cả Hà Nội đang thở nóng bên tai mình.
Thế Giang
304Đen
– llttm - OVV
No comments:
Post a Comment