Về Với Dòng Sông
Ngày Hà chào đời ở đó đã có dòng sông, ngay trước mặt, cách một con
đường mà nơi mé sông người ta trồng đầy hoa phượng. Mỗi độ hè về nắng lên rực
rỡ, hoa đỏ ối soi mình dưới dòng sông lung linh như một tấm lụa đào. Vào mùa
thu, cơn mưa dầm miền Nam làm rớt xuống hàng hiên những bong bóng nước phập
phồng, cuốn theo những chiếc lá nhỏ rớt xuống lòng sông, trôi theo những giề
lục bình hoa phớt tím, lang thang không biết đâu là bờ, là bến.
Năm 1954, bố Hà trôi giạt theo đoàn người di cư từ Bắc vào Nam. Hà nghe
nói bố vào Nam chỉ có một mình với người bác ruột, ông bà nội Hà không đi vì sợ
nơi xứ lạ quê người, phần tiếc vườn rau ao cá. Miền Bắc khi ấy vừa tiếp thu,
không khí chính trị sùng sục như nồi nước sôi, ông bà nội cho bố đi trước, hy
vọng một vài năm đất nước yên ổn, cả nhà lại đoàn tụ.
Ai ngờ chuyến đi ấy là chuyến đi
không có ngày trở về, hai miền Nam Bắc thực sự phân ly từ nhịp cầu Hiền Lương
trên dòng sông Bến Hải, bố Hà chỉ có một thân một mình bơ vơ ở miền Nam.
Người bác dâu không tử tế như bố nghĩ, lại thêm anh chị họ đông nên dần
dần bố thấy lạc lõng như chịu cảnh mẹ ghẻ con chồng. Cố học xong mảnh bằng Tú
Tài, ông nhập ngũ ngay, ra trường là một sĩ quan tốt nghiệp trường Trừ Bị Thủ
Ðức. Từ đấy đời sống của ông trôi nổi theo những đơn vị và những chuyến xe nhà
binh, đâu cũng là nhà. Mãi đến khi về Trà Vinh, thị xã buồn với tiếng lá reo
của hàng sao già trong ngôi chùa Khờ Me cổ kính, gặp mẹ Hà, người tình đầu tiên
và cũng là vợ hiền của ông.
Cuộc tình của bố mẹ Hà là cuộc tình “Tình Bắc, duyên Nam”. Mẹ Hà lúc ấy
là giáo viên dạy Tiểu Học, sống với gia đình người dì thứ Năm có chồng là công
chức cao cấp ở Tỉnh. Ông bà ngoại Hà ở miền quê, trong một cuộc đất ven sông
rộng hằng mấy mẫu, trồng toàn dừa nước để lấy lá bán cho người ta lợp nhà, và
vườn cây ăn trái đủ thứ ổi, mãng cầu, cam, quýt và dừa xiêm.
Ngày mẹ quyết định lấy bố cũng gặp phải trở ngại dữ dội phía bên ngoại,
dù hai người cùng là người Việt Nam, nhưng hai chữ “Bắc Kỳ” vẫn mơ hồ như là
người khác nước. Bà ngoại Hà e sợ cảnh về làm dâu nhà người Bắc, khi biết bố Hà
chỉ có một mình, bà lại ngại thứ con đường con chợ. Cả hai mẹ con khóc lên khóc
xuống nhiều phen, sau phải nhờ ông dượng có uy quyền nhảy vào can thiệp, màn kỳ
thị Bắc Nam mới chấm dứt. Bố Hà tập nói tiếng Nam, giọng miền Bắc cứng đơ là
những tràng cười mua vui cho gia đình bên vợ, nhưng tính ông hiền lành, lại tốt
bụng, khéo cư xử nên dần dà ai cũng thương.
Bố Hà tập ăn canh chua miền Nam, mắm kho nấu với tép bạc, lươn vàng, cá
lóc và cà tím. Tập ăn cọng bông súng, rau dừa và rau giấp cá, canh củ mài nấu
với tôm bóc vỏ có rắc ngò gai, dưa mắm thay cho cà bát ngâm tương, lâu ngày ăn
quen nên đi đâu cũng nhớ hương vị miền Nam. Chợ Trà Vinh nằm ven bờ sông, tấp
nập ghe thuyền từ các nơi chở đến nên tôm cá tươi nhảy soi sói, cây trái miệt
vườn còn thơm hương đồng cỏ nội, dân chúng lại mộc mạc ấp lẫm tình người. Món
đặc biệt nhất của Trà Vinh là bún nước lèo đầy ắp những tôm, thịt và cá lóc.Tuy
vậy, bố vẫn thèm món riêu cua đồng miền Bắc, những tháng chợ nhiều cua đồng, bố
bày cho mẹ nấu riêu cua miền quê nội.Những
con cua đồng miền Nam trước kia chỉ để luộc ăn chơi với muối tiêu, nay được mẹ
giã nhỏ lọc lấy nước, rồi phải biết bí quyết nấu, thịt cua nổi lên từng mảng
thật đẹp trên mặt nồi canh, ăn với cây chuối non thái mỏng và rau kinh giới,
thêm chút mắm tôm của người Bắc. Thỉnh thoảng ngoại ra thăm, mẹ lại trổ tài nấu
món bún riêu cua đồng miền Bắc, ai ăn cũng khen ngon. Bởi vậy sau này khi Hà
được bố mẹ cho về quê thăm ngoại, đã thấy món canh cua đồng được phổ biến rộng
rãi nơi những nhà bên ngoại.
Bố mẹ lấy nhau hơn một năm thì Hà ra đời. Bố đặt tên cho cô con gái đầu
lòng là Thanh Hà vì con sông xanh trước cửa nhà, tuy con sông nước lờ lợ đục
ngầu phù sa. Vào mùa khô, nước kém, nước biển tràn về làm nước sông lờ lợ.
Người ta không uống được nước sông như những nơi khác thuộc đồng bằng sông Cửu
Long, nhưng đã có nước giếng. Ngay nước giếng cũng đầy phèn, mỗi khi giặt giũ
xong, Hà thấy trên móng tay bám một lớp trắng xoá. Vài hôm, mẹ Hà lại kêu chị
người làm gọi những xe nước uống vào đổ đầy mấy cái lu lớn, mỗi cái xe chở nước
được phủ lên mặt những cành lá dứa. Sau này Hà mới biết muốn có thứ nước để
uống, người ta phải tìm những mạch nước ngọt, nằm gần ngôi chùa Phướn ở ngoại ô
đào thành những cái giếng vừa to vừa rộng, người lấy nước có thể đi xuống lòng
giếng và múc nước về chứa trong thùng, lóng trong rồi mới đem đổi cho người
dùng. Người ta không gọi là “bán nước”, để tránh hai chữ oan nghiệt mà bất cứ
người Việt Nam nào cũng lờ mờ hiểu là chẳng hay ho gì.
Nhà của bố mẹ Hà là một căn nhà ngói được xây theo kiểu mới, xen lẫn với
những căn nhà cổ ẩn sau vườn cây xanh có từ thời Pháp thuộc, nằm bên này bờ
sông gần phố chợ. Trước nhà là một giàn bông giấy màu hồng tím, chiếc cổng sắt
sơn màu vàng nhạt. Từ trong nhà bước ra, trước mặt là dòng sông, đi về phía tay
trái là khu nhà ở, phong cảnh thật là thơ mộng với nhiều vườn cây ăn trái nằm
dọc ven con đường mé sông, không chen chúc chật chội như những khu khác. Nhưng
những năm về sau cuộc chiến lan rộng hơn, Hà thấy ở mé bờ những con rạch nhỏ đã
có đám người từ trong quê chạy ra thành phố lánh bom đạn. Họ làm nhà bằng cây
tràm, gỗ tạp và thiếc mỏng, lợp lá, nằm chen chúc nhau trên bờ rạch, rác rưởi
và bao nhiêu thứ xú uế được đẩy xuống dòng sông, phong cảnh đã không còn thơ
mộng nữa.
Ði về phía tay
mặt là con đường dẫn ra chợ, chỉ một con đường mà hai cảnh sống
đã khác nhau. Ðấy là một khu phố chợ phồn thịnh, tràn đầy sức sống, có những
vựa củi, tiệm tạp hoá, cửa hàng chạp phô của người Hoa và cả quán ăn nữa. Cả một
khu chợ nằm ven sông, chen chúc những chiếc ghe xuồng từ miền quê chở rau cỏ,
tôm cá từ quê ra chợ, người ta lên xuống những chiếc đò máy đi về hai ngả của
dòng sông. Hà chỉ biết lờ mờ ngả bên phải dẫn về quê ngoại của mình, và ngả bên
tay trái đi về những làng mạc ngoài sông Cái, từ đấy có một cửa sông rộng, nước
chảy xuôi ra biển. Cũng trên dòng sông ấy, gần khu chợ là một chiếc cầu sắt bắc từ bờ bên này
sang bờ bên
kia, gọi là cầu Long Bình. Bên này là phố chợ an ninh và bên kia, chỉ cách một nhịp cầu mà đêm đêm, người ta
có thể nghe
thấy tiếng súng nổ vu vơ. Mẹ Hà chập tối đã lùa lũ con vào nhà,
nét âu lo thoảng trên khuôn mặt dịu hiền, khi thấy bố Hà vì bận công tác vẫn
chưa về nhà ăn cơm chiều.
oOo
Những năm còn bình yên, dòng sông vẫn hiền hoà đưa những chuyến đò về
quê ngoại ăn Tết. Con đò lướt đi trên dòng sông mênh mông, hai bên bờ là những
rặng dừa nước, những cây bần, bình bát, bằng lăng hoa tím như đan thành một
bóng râm mát rượi, làm đẹp thêm không khí an bình cho dòng sông miền quê ngoại.
Suốt năm ở thành phố, chị em Hà chỉ mong Tết hay hè được đi đò về quê ngoại,
rón rén đi trên chiếc cầu khỉ bắc trên con mương ven bờ sông, để thấy căn nhà
của ngoại có khoảng sân rộng trồng đầy cây kiểng, nhìn con bò mẹ đứng yên cho
con bú, và chị em Hà được ăn thoả thích những thứ cây trái trong vườn nhà
ngoại. Buổi chiều, trên chiếc tam bản, người chị họ đưa mấy chị em đi chơi dọc
theo dòng sông, thỉnh thoảng lại có chiếc đò máy phăng phăng lướt sóng, chiếc
tam bản bị nhồi lên nhồi xuống theo làn sóng trong nỗi sợ hãi của chị em Hà.
Ngày Hà lớn dần lên là những năm chiến tranh càng ngày càng lan rộng, mẹ
Hà không dám đưa con về quê ngoại như những năm trước, bố Hà lại càng vất vả vì
những cuộc hành quân nguy hiểm. Mãi sau này, lần đầu tiên Hà theo lũ bạn thời
Trung Học qua chiếc cầu sang bên kia sông vào một ngày nắng đẹp, Hà mới thấy
quê hương sao đẹp đẽ vô ngần. Ngồi với bạn trên một bờ cỏ non của Xóm Ðầu Bờ,
con đường này kéo dài về những vùng xa như Giồng Rùm, Bàng Ða, Cầu Ngang rồi sẽ
đưa du khách đến Ba Ðộng “biển xanh cát trắng”. Chiến tranh đã giết dần mòn
những khung cảnh nên thơ của đất nước, chỉ qua đến Ðầu Bờ, Hà đã được nhìn đàn
cò trắng xoải cánh bay trên những thửa ruộng, người nông dân quần xắn cao trên
đầu gối đang cấy mạ trên thửa ruộng săm sắp nước. Hà không hình dung nổi ở vùng
đất ấy, bóng đêm cùng với thần chết rình rập lên trên thân phận con người.
Chuyện ấy xảy ra đã lâu nhưng với Hà là một ám ảnh khôn nguôi, trước cái
chết hãi hùng cha của người bạn cùng lớp. Ông chỉ sang sông để làm công tác
bình dân học vụ, và vài hôm sau, người ta thấy ông nổi lên với cái xác cụt đầu.
Hà không hiểu nổi sự hận thù nào có thể có được trong những công việc tốt đẹp
như thế. Ðể rồi nhiều năm sau, tâm hồn cô bé đã bớt ngạc nhiên khi thỉnh thoảng
nhìn thấy xác người trôi trên dòng sông, tấp vào phố chợ, những người sống ven
bờ sông hãi hùng hàng mấy ngày không dám tắm tát, giặt giũ, bơi lội nữa.
oOo
Năm 75, lúc ấy Hà đã mười sáu tuổi. Ðáng lẽ là thời kỳ bắt đầu tuổi mộng
mơ thì Hà đã già dặn hơn, chỉ vì là chị lớn trong nhà, trong lúc bố một sáng
một chiều bỗng dưng trở thành người không chỗ đứng . Bố kể lại cái cảm giác kỳ
lạ của bố những ngày sau chiến tranh, khi đất nước được lãnh đạo bởi những
người anh hùng áo vải, chân đất. Sự suy nghĩ của họ thật đơn giản là đánh đổ
những cái cũ, nhưng cái mới thì lại trống trải, do đó chẳng phải bố bị đưa đi
tẩy não, mà cả những người trí thức cũng tự nhiên phải công nhận là mình chưa
đủ trí tuệ. Căn nhà của bố mẹ nay đã cũ kỹ, hình như nó cũng buồn theo khi bố Hà từ giã vợ con
lên đường ra
Bắc. Chuyến về quê vẫn chỉ có một mình như chuyến vào Nam cũng
chỉ có một mình, nhưng lần này bi thảm hơn. Chuyến đi thăm bố ở miền Bắc là lần
cuối cùng Hà được gặp bố, bố dặn Hà thay bố về quê cũ tìm lại ông bà nội và các
chú bác trong nhà. Ông bà nội đã mất, chỉ còn lại hai nấm mồ được xây bằng
những tảng đá ong. Sau đó về Nam, mẹ quyết định cho Hà và hai đứa em kế theo
chị đi vượt biên như lời bố dặn dò.
Khi bước chân ra đi, Hà không hề nghĩ có ngày mình sẽ trở lại quê nhà có
một mình, sau chuyến vượt biên kinh hoàng bi thảm đó.Hà mất một lúc hai
đứa em. Chuyến đò chuyển người lên tàu lớn để ra khơi bị rượt đuổi, giữa một đêm tối trời đã đụng vào ghềnh đá. Ðêm rất lạnh, con đò bị lật xuống bất ngờ, hai đứa nhỏ đang
ngủ chìm nghỉm trong tấm chăn ướt không vùng vẫy ra được.
Hà may mắn bám vào được chiếc thùng nước rỗng, giữa những người bị nạn lóp
ngóp, lặn hụp giữa đợt sóng dữ và bóng tối, sau đó được dân trong vùng mang
xuồng ra tiếp cứu, may mắn mới còn sống sót.Lúc bước thấp, bước cao trong bộ quần áo ướt sũng,
theo đám người đồng cảnh hoạn nạn đêm ấy về trại giam, Hà chưa nghĩ nổi là mình
đã mất hai đứa em, và không biết tại sao mình còn sống. Hai đứa em trai tuổi
mới lớn, tính còn trẻ con, mỗi buổi chiều vẫn bơi lội bì bõm nơi dòng sông
trước nhà, mới đó đã không còn. Những ngày trong tù, Hà vẫn hoảng loạn nghĩ là
hai đứa đi chơi đâu, và mỗi bữa cơm, Hà lại thảng thốt gọi em về ăn cơm, trong
nỗi thương cảm, đau sót của những người đồng cảnh ngộ.
Phải một thời gian lâu lắm Hà mới tạm quen sự vắng mặt của hai đứa em,
khi một người bạn tù đã nghĩ ra cách nói dối là hai đứa đã được cho về với mẹ.
Mãi mấy tháng sau khi được thả, mẹ đưa Hà đến nơi chôn cất hai thằng em trai,
hai nấm mộ đất cắm hai mảnh gỗ mỏng, nằm trên một vồng đất ven con sông cái.Hai
nấm mộ nằm bên
nhau, cỏ mọc lún phún trong khu đất của một ngôi chùa miền quê, nơi ấy Hà còn
thấy vài nấm mộ nữa. Tất cả là những nạn nhân xấu số mà người ta vớt được xác
vài ngày sau cái đêm kinh hoàng đó. Một bên là vồng đất cao trồng rẫy, một bên
là hàng dừa xanh lả bóng ven sông, tạo thành một khoảng bóng lớn che trên những
nấm mộ đất đơn sơ. Hai đứa em nằm đó, hai thằng bé dễ thương vẫn chị chị em em
hôm nào, nay chỉ còn là hai nấm mộ lặng lẽ nằm ven bờ sông, ngày ngày nghe
tiếng sóng âm vang dội vào bờ cát.
Chưa thấy bến bờ tự do, gia đình Hà đã đánh đổi lấy một giá quá đắt cho
hai chữ tự do, để cuối cùng lại quay về chốn cũ với bao nhiêu mất mát. Sau ít lâu,
hai thằng nhỏ được gia đình bốc mộ đem tro cốt về quê. Hai
cái hũ đựng hình hài được đem gửi
trong một ngôi chùa gần nhà, cũng nằm ven dòng sông. Ðôi
khi Hà nghĩ về thế giới bên kia, liên tưởng như hai đứa em vẫn ngày ngày bơi
lội trên dòng sông, vẫn nhìn thấy những chuyến đò đưa khách từ bờ bên này sang
bờ bên kia mỗi buổi chợ. Chắc hẳn những ngày sau đó, hai linh hồn thơ dại kia,
mỗi ngày đã có tiếng kinh, tiếng mõ xoa dịu chút nào những mảnh hồn lạnh lẽo.
Những ngày trước đó, không mấy đêm mà Hà không thấy hai đứa em trở về, lần nào
cũng như lần nấy, hai đứa nhỏ người ướt sũng như vừa từ bến nước lên, lần nào
chúng cũng than lạnh. Bao nhiêu lần trong giấc mộng, giữa đêm khuya, Hà hoảng
hốt choàng dậy đi lấy quần áo cho em. Cũng ngay lúc ấy, Hà như nhìn thấy chập
chờn hai chiếc bóng trắng, tan đi như sương, phả vào căn phòng một luồng hơi
lạnh ngắt.
oOo
Sau này, Hà lại một lần nữa thử thời vận với biển khơi, chuyến đi thập
phần sinh tử nhưng cuối cùng cũng đến được bến bờ tự do, năm ấy Hà đã hơn hai
mươi tuổi. Bố Hà vẫn chưa về, chỉ có mẹ và đứa em nhỏ nhất ở nhà. Làm sao nghĩ
nổi rằng hạnh phúc lại có thể mất đi một cách quá dễ dàng như thế, sự tan nát
của một gia đình. Lớn lên , Hà chưa kịp yêu thì cuộc đời đã giáng xuống bao
thảm cảnh, khiến mỗi lúc nhớ về dĩ vãng thì chỉ là những hình ảnh mơ hồ trong
mênh mông cuộc đời. Con đường đến trường rợp lá me bay, hàng phượng vĩ ven sông
in xuống đáy nước rung rinh màu hoa đỏ thắm. Chuyến đò đêm từ quê ngoại về
thành phố, sông bao la lấp lánh ánh trăng vàng, hai ven bờ là những thôn xóm
rải rác, cây lá mập mờ dưới bóng đêm, chiếc cầu sắt nằm vắt ngang dòng sông. Hà
mang theo hình ảnh ấy vào tâm khảm khi có những tháng ngày sống một mình đằng
đẵng chốn quê người. Cuối cùng thì bố cũng trở về với mẹ, với căn nhà bên dòng sông mà lúc bố vào Nam
đã nhận đấy là quê hương.
Những lá thư của bố viết
sang không hề than
thở, nhưng nhìn dòng chữ yếu ớt run run của bố, Hà hình dung ra sự đổ vỡ của
tâm hồn lẫn thể xác. Phải một thời gian khá lâu, Hà mới mang được bố mẹ và đứa
em út sang Mỹ. Hai đứa em chết năm xưa bố mẹ vẫn để trong chùa, sang đến xứ
người Hà thấy bố vẫn không vui hơn, hình như bố cứ u uẩn nỗi nhớ quê và bao
điều không làm được.
oOo
Từ ngày xa quê hương, Hà không nghĩ là mình sẽ trở lại. Về với dòng sông
nơi những năm tháng xa xưa, Hà có lúc đã đắm hồn theo những giọt mưa giăng
giăng mịt mùng, khi bóng chiều đã ngả xuống mặt sông, có những chiếc xuồng lướt
qua như đi về cõi hư vô. Mưa từ trời đổ xuống, nước từ dưới sông dâng lên hoà
vào nhau một chút sầu vời vợi.
Vậy là Hà vẫn trở lại, về với dòng sông, thăm căn nhà xưa, thăm miền quê
ngoại, và cũng là để mang cốt hai đứa em về với dòng sông như ý muốn của bố mẹ.
Nếu một mai không ai còn trở về, hai đứa em cuối cùng cũng đã hoà tan vào dòng
sông chốn quê nhà, như thân phận con người rồi cũng trở về với tro bụi. Chiếc tam bản buổi sáng hôm ấy chỉ có Hà với cô gái chèo
thuyền có khuôn mặt thuần hậu, đó cũng là hình bóng Hà
trong những năm tháng cũ. Nhìn dáng vẻ mảnh
mai với đôi tay
chèo của cô con gái miền lục tỉnh trong chiếc áo bà ba, Hà biết chắc muôn đời sẽ
không bao giờ quên nổi hình bóng dòng sông quê hương trong tâm khảm. Ôm khư khư chiếc xách tay có đựng tro cốt của hai đứa em,
nước mắt Hà giàn giụa khi nhớ đến ngày xưa, hai thằng em
được chị đưa đi tìm tương
lai nơi xứ người, có biết đâu lần ấy là lần cuối cùng biền biệt cõi thiên thu.
Hà tụng kinh nho nhỏ, chiếc xuồng cứ thế lướt êm trên dòng sông gờn gợn
sóng, hướng về phía cù lao có rất nhiều vườn cây ăn trái. Giữa khoảng trời nước
mênh mông ấy, Hà đã chọn là nơi êm đềm nhất để hai đứa em, một lần cuối cùng
được an nghỉ nơi dòng sông quê mẹ. Khi đổ nốt nhúm tro
tàn xuống lòng sông, nước mắt Hà cứ tuôn như mưa. Cô gái chèo xuồng cũng không dấu được đôi mắt đỏ, cái miệng
xinh xinh cũng đang lâm râm niệm Phật.
Ôi! Những giọt nước mắt của kẻ tha hương một lần trở lại chốn quê nhà,
đã rớt xuống làm mặn thêm cái mặn mà của dòng sông quê mẹ, nơi đã từng sinh ra,
đã từng lớn lên, đã có biết bao kỷ niệm đầm ấm. Còn một ngày cuối cùng trên quê hương để ngày mai trở lại nước Mỹ, Hà tìm đến căn nhà xưa nơi
Hà đã mở mắt chào đời, đã ấp ủ bao nhiêu kỷ niệm một thời nay được bán lại cho
người khác. Chiếc cổng sơn vàng vẫn rợp bóng cây bông giấy màu hồng tím, cây
mận đỏ của mẹ trồng trước sân vẫn còn đó, tự nhiên Hà rưng rưng muốn khóc.
Ðứng nép vào bờ tường phía bên ngoài của căn nhà xưa, Hà dõi mắt nhìn
theo đám trẻ con vẫn lội bì bõm dưới bến sông, bập bềnh từng mảng rác bẩn tấp
vào mé cầu và giề lục bình hoa phớt tím lênh đênh trên sông chiều. Bóng chiều
đã nhập nhoà in xuống dòng sông một mảng mây tím lúc hoàng hôn, cuộc sống dường
như có quá nhiều thay đổi, nhưng dòng sông vẫn mãi mãi là dòng sông năm cũ.
Bỗng trong một giây phút ngắn ngủi, Hà có cảm tưởng mình mơ ngủ, khi rõ ràng
nhìn thấy hình ảnh hai đứa em lẫn trong đám trẻ con, đang vùng vẫy bơi lội dưới
mé sông. Hai cái đầu hụp lên hụp xuống trong dòng nước, rồi tan đi như bong
bóng
Nguyên Nhung
304Đen – Llttm -tvvn
No comments:
Post a Comment