NHỮNG
ĐẶC TÍNH TRUYỀN THỐNG CƠ BẢN CỦA NỀN GIÁO DỤC MIỀN NAM TRƯỚC 75
Bồng bồng mẹ bế con sang,/ Đò dọc quan cấm, đò
ngang không chèo./ Muốn sang thì bắc cầu kiều, Muốn con hay chữ thì yêu lấy
thày. (Ca dao Việt Nam)
“Tôi muốn thấy có sự kính trọng trong
một trường học. Ông thày tới, học trò phải nghiêm chỉnh đứng dậy chào thày…” –
Nicolas Sarkozy, khi tranh cử Tổng Thống Pháp (Từ Nguyên)
Phạm Cao Dương
Một người bạn mới về thăm Việt
Nam trở lại Mỹ trước ngày Lễ Tạ Ơn 2016 ít ngày cho biết rất nhiều người trong
nước hiện tại đã đánh giá cao nền giáo dục ở Miền Nam thời trước năm 1975;
riêng bà con ở Miền Nam lại lấy làm hãnh diện là đã được đào tạo bởi nền giáo
dục ấy, trong những học đường Miền Nam và bởi các thày cô Miền Nam.
Nhân dịp này, tôi xin được cùng
bạn đọc ôn lại những ưu điểm qua một số những đặc tính cơ bản của sinh hoạt
giáo dục ở Miền Nam thời trước năm 1975 nói riêng và văn hóa miền Nam nói
chung, chính yếu là sự liên tục lịch sử. Nói như vậy không phải là trong thời
gian này miền đất của tự do và nhân bản mà những người Quốc Gia còn giữ được
không phải là không trải qua nhiều xáo trộn. Chiến tranh dưới hình thức này hay
hình thức khác luôn luôn tồn tại và có những thời điểm người ta nói tới các chế
độ độc tài hay quân phiệt và luôn cả cách mạng. Nhưng ngoại trừ những gì liên
hệ tới chế độ chính trị, quân sự hay an ninh quốc gia, sinh hoạt của người dân
vẫn luôn luôn diễn ra một cách bình thường, người nào việc nấy, người nào trách
nhiệm nấy và được tôn trọng hay tôn trọng lẫn nhau. Sự liên tục lịch sử do đó
đã có những nguyên do để tồn tại, tồn tại trong sinh hoạt hành chánh, tồn tại
trong sinh hoạt tư pháp, trong văn chương và nghệ thuật và tồn tại đương nhiên
trong sinh hoạt giáo dục. Trong bài này tôi chỉ nói tới tới giáo dục và giáo
dục công lập. Đây không phải là một bài khảo cứu mà chỉ là một bài nhận định và
những nhận định được nêu lên chỉ là căn bản, sơ khởi, và tất nhiên là không đầy
đủ. Đồng thời mỗi người có thể có phần riêng của mình. Một sự nghiên cứu kỹ
càng, có phương pháp hơn và đầy đủ hơn là một điều cần thiết.
Giáo dục là của những người làm giáo dục
Giáo dục công lập ở Việt Nam đã
có từ lâu đời và tùy theo nhận định của các sử gia, tới một mức độ nào đó định
chế này đã tồn tại trên dưới mười thế kỷ. Mục đích của nó là để đào tạo nhân
tài cho các chế độ, nói riêng, và cho đất nước, nói chung. Các vua chúa Việt
Nam thời nào cũng vậy, cũng coi trọng việc học cả. Có điều coi trọng thì coi
trọng, các vua Việt Nam, nói riêng và các triều đình Việt Nam, nói chung, chỉ
vạch ra những đường nét chung và những mục tiêu chung, kèm theo là tổ chức các
kỳ thi để tuyển chọn người tài mà không trực tiếp can dự vào sinh hoạt giảng
dạy của các trường, hầu hết là các trường tư ở rải rác khắp trong nước. Sinh hoạt
này hoàn toàn do các thày ở các trường do các tư nhân đảm trách. Giáo dục là
của người dân và của những người làm giáo dục, và cho đến khi người Pháp sang,
nó là của giới trí thức đương thời, đúng hơn là của các nhà Nho với tất cả
những học thuyết, những nguyên tắc căn bản của giới này. Sang thời Pháp, do nhu
cầu bảo vệ và phát triển văn minh và văn hóa của họ, người Pháp lập ra một nền
giáo dục mới, nhưng việc điều hành, việc soạn thảo chương trình vẫn được giao
cho các nhà giáo được huấn luyện chuyên môn hay ít ra là lựa chọn nghề dạy học
với tinh thần quí trọng kiến thức và yêu mến nghề dạy học dù chỉ là tạm thời về
phía người Pháp cũng như về phía người Việt. Họ mở các trường sư phạm để huấn
luyện giáo chức chuyện nghiệp.
Đặc tính kể trên đã liên tục
được tôn trọng trong suốt thời gian miền Nam tồn tại và luôn cả trước đó, từ
thời Chính Phủ Quốc Gia của Cựu Hoàng Bảo Đại. Chức vụ bộ trưởng hay tổng
trưởng giáo dục có thể là do các chính trị gia hay những người thuộc các ngành
khác đảm nhiệm, nhưng trong việc lựa chọn nhân sự điều hành trong bộ, ngoại trừ
các chức vụ có tính cách chính trị như đổng lý văn phòng, chánh văn phòng, bí
thư tức thư ký riêng của bộ trưởng… tất cả các chức vụ chỉ huy khác trong bộ,
từ thứ trưởng, tổng thư ký, tổng giám đốc, giám đốc cho tới các hiệu trưởng các
trường và đương nhiên là các giáo sư, giáo viên, đều là những nhà giáo chuyên
nghiệp, không có đại diện đảng phái chính trị ở bên cạnh. Lý do rất đơn giản:
họ là những người vô tư, biết việc, rành công việc và có kinh nghiệm, chưa kể
tới sự yêu nghề. Chính trị đối với họ chỉ là nhất thời, tương lai của cả một
dân tộc, hay ít ra là của những thế hệ tới mới, là quan trọng. Trong phạm vi
lập pháp, rõ hơn là ở quốc hội, các chức vụ đứng đầu các ban hay tiểu ban, dù
là thượng viện hay hạ viện đều do các nghị sĩ hay dân biểu gốc nhà giáo phụ
trách. Ngoại trừ ở những vùng mất an ninh, những gì thuộc phạm vi chính trị
nhất thời đã ngưng lại trước ngưỡng cửa của học đường. Thày cô giáo là nhân
viên của bộ giáo dục, do bộ giáo dục bổ nhiệm, trực thuộc vị hiệu trưởng của
trường sở tại, rồi các nha sở của bộ giáo dục ở trung ương chứ không trực thuộc
các quận hay tỉnh trưởng.
Về tên các trường, tất cả các
trường trung, tiểu học đều được gọi bằng tên của các danh nhân hay anh hùng dân
tộc thời trước, được mọi người công nhận, Trưng Vương, Ngô Quyền, Chu Văn An,
Đoàn Thị Điểm, Gia Long, Petrus Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu,
Phan Thanh Giản, Lê Ngọc Hân… không hề có tên nào là của các lãnh tụ đương thời
dù đó là Bảo Đại, Ngô Đình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, kể cả Trần
Văn Hương gốc nhà giáo… thay vì những tên hoàn toàn xa lạ đối với quảng đại
quần chúng Miền Nam về sau này như Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị
Sáu, Lê Văn Tám…, những người của một đảng chính trị hay, tệ hơn nữa, là ngụy
tạo, không có thật.
Tôn chỉ và mục đích nhằm hướng
tới quốc gia, dân tộc và con người, dựa trên những truyền thống đã có từ lâu
đời.
Nói tới ba nguyên tắc căn bản,
đồng thời cũng là tôn chỉ và mục đích tối hậu của nền giáo dục của miền Nam
trước năm 1975, có người tỏ ý không thích ba nguyên tắc này. Lý do có lẽ, tôi
chỉ đoán như vậy, là vì ba nguyên tắc này phần nào đã được người Cộng Sản Việt
Nam nêu lên trong Đề Cương Văn Hóa 1943 của họ. Ba nguyên tắc đó là Nhân Bản, Dân
Tộc và Khai Phóng, sau này là Nhân Bản, Dân Tộc và Khoa Học trong khi trong Đề
Cương Văn Hóa của Đảng Cộng Sản Việt Nam thì là Dân Tộc, Đại Chúng và Khoa Học…
Ở đây người viết không đi sâu
vào khía cạnh này vì dù không thích, không đồng ý, ba nguyên tắc Dân Tộc, Nhân
Bản và Khai Phóng này vẫn đã trở thành căn bản của nền giáo dục của miền Nam mà
không ai lưu tâm tới vấn đề là không biết. Chúng đã giúp cho nền giáo dục này
giữ được những truyền thống cơ bản của dân tộc và phát triển một cách vững vàng
từng bước một để theo kịp với đà tiến triển của cả nhân loại mà không chạy theo
những gì của thời thượng để trở thành lai căng, mất gốc, đồng thời cũng không
bị gán cho là bảo thủ, lỗi thời… Tính cách liên tục lịch sử của nền giáo dục
của miền Nam sở dĩ có được, phần nào là dựa trên những nguyên tắc này, đặc biệt
là nguyên tắc Dân Tộc. Nó cho phép người ta đề cao và bảo tồn những truyền
thống dân tộc trong học đường, dù đó là những truyền thống thuần túy Việt Nam
hay những truyền thống của Khổng giáo. Đôi câu đối được khắc trên cổng chính
của một trong những trường trung học lớn nhất của miền Nam là trường Petrus
Trương Vĩnh Ký sau đây là một trường hợp điển hình:
Khổng Mạnh cương cường tu khắc cốt
Âu Tây khoa học yếu minh tâm
Sự khủng hoảng hiện tại của nền
giáo dục ở trong nước là do ở sự thiếu những yếu tố chỉ đạo này. Điều này đã
được thấy rõ qua sự vô cùng lúng túng của Ông Vũ Đức Đam, đương kim Phó Thủ
Tướng, đặc trách văn hóa, xã hội, khoa học, giáo dục và đào tạo trong một buổi
điều trần trước Quốc hội và bị hỏi câu hỏi là: “Có hay không một triết lý giáo
dục Việt Nam?” Điều khiến cho người ta ngạc nhiên là không lẽ là một cán bộ ở
cấp cao chuyên lo về văn hóa như vậy, ông lại không biết tới Đề Cương Văn Hóa
1943 trong đó ba nguyên tắc cơ bản chỉ đạo cho các vận dụng văn hóa, nói chung,
văn học và giáo dục… nói riêng, là: dân tộc hóa, đại chúng hóa, và khoa học hóa
đã được nêu cao hay sao? Không lẽ ba nguyên tắc này đã trở thành lạc hậu trong
tình thế mới, trước quyền hành và quyền lợi của nhà cầm quyền?
Liên tục trong phạm vi nhân sự
Nhân sự ở đây không ai khác hơn
là các nhà giáo, căn bản là các nhà giáo chuyên nghiệp. Tôi muốn nói tới các
nhà giáo tốt nghiệp từ các trường sư phạm, những người ngay từ thuở thiếu thời
đã chọn nghề dạy học làm lý tưởng cho mình và chỉ sống bằng nghề dạy học, vui
với nghề dạy học hãnh diện với vai trò làm thày, làm cô của mình, dù đó là sư
phạm tiểu học hay sư phạm trung học. Một nghề bị coi là “bạc nghệ”, là bị xếp
sau so với các nghề khác:
Dưa leo ăn với cá kèo,
Cha mẹ anh nghèo, anh học noọc-man.
(noọc-man: nghề Thầy giáo, theo hệ thống giáo dục Pháp xưa)
Tất cả các vị này vẫn còn nguyên
vẹn khi đất nước bị qua phân và đã ở các trường trong Nam khi các trường này
được mở cửa trở lại sau một thời gian chiến tranh bị tạm đóng cửa, không mấy
người tập kết ra Bắc.
Sau khi đất nước bị chia cắt và
qua cuộc di cư của non một triệu người từ miền Bắc vô Nam, họ lại được tăng
cường thêm bởi một số đông các đồng nghiệp của họ từ miền Bắc vô cùng với các
trường được gọi là Bắc Việt di chuyển: Ngô Quyền, Nguyễn Trãi, Chu Văn An,
Trưng Vương, Hồ Ngọc Cẩn, Trần Lục… Tất cả đã cùng nhau hướng dẫn và điều hành
các học đường miền Nam trong thời kỳ chuyển tiếp từ Pháp thuộc sang độc lập,
đồng thời cũng là những giảng viên cơ bản trong các trường huấn luyện giáo chức
thuộc thế hệ mới. Từ phong thái đến cách giảng dạy, từ cách vào lớp, cho phép
học trò ngồi, tới cách viết bảng và xóa bảng, cách chấm bài hay phê bài, các vị
này đã để toát ra một sự chừng mực và vô cùng thận trọng của những nhà sư phạm
nhà nghề, khác hẳn với một số các đồng nghiệp của họ từ ngoại quốc về chỉ lo
dạy các môn học chuyên môn. Học đường do đó đã tránh được nạn chánh trị hóa,
tránh được nạn cán bộ chánh trị xâm nhập. Nhiều vị vào những lúc tình thế vô
cùng tế nhị đã giữ được thế vô tư và độc lập, nghiêm chỉnh của học đường và tư
cách của giáo chức. Cũng cần phải nói thêm là trong thời gian này nhiều vị xuất
thân là cử, tú, kép, mền, luôn cả tiến sĩ của thời trước, những người tinh thâm
Nho học, vẫn còn có mặt ở các học đường, đặc biệt là các Đại Học Văn Khoa ở
Saigon và Huế như Tiến Sĩ Nguyễn Sĩ Giác, Cử Nhân Thẩm Quỳnh, Tú Tài Kép Vũ Huy
Chiểu… mà không ai là không quý trọng.
Hệ thống tổ chức, tổ chức thi cử
và chương trình học vẫn giữ được những nét chính của Chương Trình Pháp và
Chương Trình Hoàng Xuân Hãn, Phan Huy Quát.
Đây là một trong những đặc tính
căn bản của nền giáo dục của miền Nam trong suốt thời kỳ nền giáo dục này tồn
tại. Những gì người Pháp thiết lập không những không bị hủy bỏ, coi như tàn
tích của chế độ thực dân, đế quốc mà còn được thận trọng giữ gìn, song song với
việc bảo tồn truyền thống văn hóa cổ truyền và đạo đức của dân tộc. Người Việt
ở miền Nam trong tinh thần cởi mở và tự do đã biết phân định những gì là kìm
kẹp và những gì là hay đẹp mà một chế độ chính trị đem lại, thay vì cứ nhắm mắt
đập bỏ để sau này hối tiếc. Các nhà làm giáo dục ở miền Nam đã tỏ ra vô cùng
thận trọng trong mọi quyết định. Những gì gọi là cách mạng vội vã, nhất thời
dường như không được chấp nhận. Họ chủ trương cải tổ để thích ứng với hoàn cảnh
mới và cải tổ từ từ, kể cả khi thế lực và ảnh hưởng của người Mỹ, từ đó áp lực
của họ đã trở nên rất mạnh. Hệ thống giáo dục do người Pháp từ tiểu học cho đến
đại học đã tồn tại dưới hình thức Việt hóa bắt đầu từ thời chính phủ Trần Trọng
Kim năm 1945, với chương trình Hoàng Xuân Hãn, vị bộ trưởng giáo dục đương
thời, sau này là Phan Huy Quát thời Quốc Gia Việt Nam mới được thành lập. Nó
cho phép người ta, từ thày đến trò, dễ dàng chuyển sang một nền giáo dục mới của
một quốc gia độc lập không hề có chuyện trục trặc. Ngay từ cuối niên học
1944-1945, trong rất nhiều khó khăn, từ giao thông, vận chuyển đến thông tin,
liên lạc, người ta đã tổ chức đươc những kỳ thi ở bậc tiểu học bằng tiếng Việt
mà không hề có chuyện than phiền, khiếu nại. Điều nên nhớ là Chính Phủ Trần
Trong Kim chỉ tồn tại có vẻn vẹn bốn tháng hay hơn một trăm ngày, vô cùng ngắn
ngủi, với những phương tiện giao thông và liên lạc hết sức nghèo nàn. Sau này
khi gửi sinh viên ra ngoại quốc du học, miền Nam đã không gặp phải những khó
khăn trong việc đối chiếu bằng cấp, hệ thống học và khả năng của các đương sự,
không phải chỉ riêng cho những ai muốn sang du học bên Pháp mà luôn cả cho
những ai muốn sang các quốc gia khác, kể cả Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc, Nhật… vì đó
là một hệ thống giống như các hệ thống khác thuộc thế giới tây phương, một hệ
thống gần với hệ thống chung của quốc tế.
Duy trì mối liên tục lịch sử
cũng cho phép người ta sử dụng được các sách giáo khoa của người Pháp và những
sách giáo khoa về lịch sử và văn chương Việt Nam do chính người Việt soạn thảo
từ thời trước năm 1945 và sau đó là từ năm 1947 đến năm 1954 ở những vùng đất
của người quốc gia. Điển hình là các sách toán và khoa học bằng tiếng Pháp, do
các tác giả Pháp soạn và xuất bản ở bên Pháp nhưng đã được không những các thày
mà luôn cả các trò sử dụng làm tài liệu hay để tự học. Trong phạm vi văn
chương, những sách của Dương Quảng Hàm, đặc biệt là hai cuốn Việt Nam Văn Học
Sử Yếu và Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển đã được dùng rất lâu dù cho nhiều sách
giáo khoa khác đầy đủ hơn đã được soạn thảo. Cũng vậy, trong phạm vi sử học với
cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. Về nội dung, đặc biệt là trong văn
học, người ta cũng thấy nền giáo dục của miền Nam vẫn giữ được tinh thần tự do,
cởi mở. Các tác giả được đem dạy hay trích dẫn đã được lựa chọn căn cứ vào giá
trị của các công trình của họ thay vì gốc gác và sự lựa chọn chế độ của họ,
thay vì căn cứ vào chuyện họ ở miền Bắc hay ở miền Nam trong thời gian này. Tô
Hoài, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân… là những trường hợp điển hình.
Trong phạm vi thi cử, các kỳ thi
được thiết lập từ thời Pháp hay có ở bên Pháp vẫn được duy trì, đặc biệt là hai
kỳ thi tú tài. Ở bậc đại học hệ thống tổ chức cũng tương tự. Ảnh hưởng của
người Mỹ chỉ được chấp nhận một cách từ từ với nhiều thận trọng, mặc dầu người
Mỹ đã bỏ ra nhiều tiền bạc và nhân sự qua các chương trình viện trợ khiến cho
nhiều người Mỹ đã tỏ vẻ bất bình. Hình thức thi trắc nghiệm áp dụng cho các kỳ
thi tú tài chỉ được thực hiện rất trễ về sau này và dư luận đã đón nhận nó với
những nhận định khác nhau. Tiếc rằng chỉ vài năm sau Miền Nam đã không còn nữa.
Trong phạm vi tổ chức thi cử,
người ta có thể thấy không riêng gì quan niệm, cách tổ chức, cách coi thi và
chấm thi cũng như cách cho điểm, định kết quả và công bố kết quả hãy còn chịu
ảnh hưởng nhiều của người Pháp mà còn luôn cả những thời quân chủ trước đó nữa.
Quyền uy của các giám khảo, các chánh phó chủ khảo, các giám thị đã luôn luôn
được tôn trọng và nhiều vị chủ khảo đã tỏ ra vô cùng can đảm giữ thế độc lập
cho mình hay biết khôn ngoan né tránh cho mình và cho các đồng nghiệp của mình
khi phải lãnh nhiệm vụ ở những vùng xa thủ đô Sài Gòn, an ninh và giao thông
không bảo đảm. Nên nhớ là trong thờ gian này hệ thống trung ương tập quyền vẫn
còn tồn tại. Ra đề thi, in đề thi và gửi đề thi về địa phương với tất cả sự bảo
mật cần thiết là vô cùng khó khăn, tế nhị và phức tạp. Về phía chính quyền thì
từ trung ương đến địa phương hầu như không hề có sự trực tiếp can thiệp. Báo
chí, các cơ quan truyền thông vẫn luôn luôn hiện diện và sẵn sàng phanh phui
mọi chuyện.
Một Xã hội tôn trọng sự học và những người có
học
Đây là một trong những đặc tính
cơ bản của văn hóa Việt Nam mà xã hội Miền Nam nói chung và nền giáo dục Miền
Nam nói riêng thời trước năm 1975 được thừa hưởng. Đặc tính này đã được biểu lộ
không riêng qua tinh thần tôn sư trọng đạo mà còn được coi như một giá trị và
là một giá trị đứng đầu trong mọi giá trị. Sự học là một giá trị và giáo dục là
một giá trị. Sự học hay giáo dục làm nên con người chứ không phải là những yếu
tố khác, dù đó là quyền uy và tiền bạc. Người làm công tác giáo dục được tôn
trọng và từ đó có được những điều kiện ít ra là về phương diện tinh thần để
thực thi sứ mạng của mình mà những người làm chánh trị, những nhà chủ trương
cách mạng, kể cả những người cấp tiến nhất cũng phải kiêng nể. Nhưng bù lại,
người ta lại trông đợi rất nhiều ở các người làm công tác giáo dục, ở đây là
các thày, cô. Giữa những người cùng làm công tác dạy học cũng vậy, tất cả đã
tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng các bậc tôn trưởng, kể cả những người đã khuất.
Sự thiết lập những bàn thờ tiên sư ở các trường trung học Nguyễn Đình Chiểu ở
Mỹ Tho và Phan Thanh Giản ở Cần Thơ phải được kể là tiêu biểu cho tinh thần
giáo dục của miền Nam. Đối với các phụ huynh học sinh, sự trong đợi các thày
nhiều khi qua mức, ngày nay khó ai có thể nghĩ được điển hình là chuyện “giáo
sư mà cũng ăn phở”. Câu chuyện do một vị giáo sư từ Bắc vô Nam sau Hiệp Định
Genève và được cử xuống Mỹ Tho chấm thi tú tài kể lại. Buổi sáng, các thày rủ
nhau đi ăn phở trước khi nhập trường. Ở tiệm phở, ông nghe người địa phương
thầm thì “giáo sư mà cũng ăn phở”. Nên nhớ là Mỹ Tho là một tỉnh nhỏ và hồi
giữa thập niên 1950, bằng tú tài là to lắm rồi trong khi các vị giáo sư này lại
là giám khảo chấm thi tú tài lận!
Tạm thời kết luận
Bài này bắt đầu được viết vào
lúc những tin tức về những tệ hại trong nền giáo dục ở nước Việt Nam chiếm một
phần không nhỏ trong sinh hoạt truyền thông quốc tế cũng như quốc nội. Ngoài
những tin tức, những bài nhận định còn có những hình ảnh của các kỳ thi đi kèm.
Tất cả đã xảy ra hàng ngày và đã chiếm những phần không nhỏ trong thời lượng
phát thanh hay phát hình hay trên các trang báo, đặc biệt là vào những thời kỳ
bãi trường hay khởi đầu của một niên học. Mọi chuyện đã liên tiếp xảy ra từ
nhiều năm trước và người xem, người nghe có thể đoán trước và chờ đợi mỗi khi
mùa hè và sau đó là mùa thu đến. Nhiều người còn dùng hai chữ phá sản để hình
dung tương lai của nền giáo dục này và nhiều người khác còn tỏ ý nuối tiếc quá
khứ mà họ cho là rất đẹp của nền giáo dục ở miền Nam thời trước năm 1975. Ở
đây, như đã nói trong phần mở đầu, người viết chỉ vắn tắt ghi nhận một số những
dữ kiện căn bản liên hệ tới nền giáo dục ở Miền Nam thời truớc năm 1975. Một
công trình nghiên cứu qui mô hơn và kỹ càng hơn còn cần phải được thực hiện
trước khi người ta có thể khẳng định những nhận xét này. Tuy nhiên có một điều
người ta phải để ý và thận trọng khi nói tới cách mạng và đặc biệt khi làm cách
mạng. Người ta có thể xóa bỏ một chế độ chính trị bằng cách mạng, từ đó đoạn
tuyệt với quá khứ nhưng người ta không thể theo đà đó mà làm cách mạng trong
những phạm vi sinh hoạt khác trong đó có giáo dục một cách máy móc, không thận
trọng. Nhận định này có thể bị coi là bảo thủ, nhưng đó là một sự thật và là
một sự thật bắt đầu bằng kinh nghiệm. Có điều vì bằng kinh nghiệm nên khi biết
được là sai lầm thì đã quá muộn. Những gì thuộc về quá khứ, kể cả quá khứ bị
coi là phong kiến, lạc hậu không phải là luôn luôn tệ hại, là cổ hủ và những gì
được coi là canh tân, đổi mới không phải luôn luôn là tốt đẹp. Tất cả cần phải
có thời gian để “gạn đục, khơi trong”. Duy có một điều không bao giờ thay đổi
là khi giáo dục không còn được coi là một giá trị và khi các thày cô không còn
được coi trọng thì xã hội sẽ không còn là xã hội của loài người nữa.
Đối với các nhà giáo, còn có một
câu hỏi là nghiệp đoàn giáo chức của họ ở đâu? Tự hỏi nhưng ai cũng biết là ở
Việt Nam hiện tại làm gì có nghiệp đoàn vì các luật về lập hội, lập nghiệp
đoàn, biểu tình vẫn chưa được Quốc Hội đem ra thảo luận. Tưởng cũng nên nhớ là
ngay từ thời Vua Bảo Đại, qua Chính Phủ Trần trọng Kim, các đạo Dụ về tự do hội
họp, tự do lập hội, tự do lập nghiệp đoàn đã được ban hành ngay từ Tháng Bảy
năm 1945. Tất cả đã xảy ra trong một tuần lễ đầu tháng Bảy khiến cho báo chí
đương thời đã mệnh danh tuần lễ này là Tuần Lễ Của Các Tự Do. Nhưng chỉ chưa
tới ba tuần lễ sau ngày tuyên bố nền độc lập và thành lập Chính Phủ Lâm Thời
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh ngày 22 tháng 9 năm 1945,
bãi bỏ các nghiệp đoàn trên toàn cõi Việt Nam. Đồng thời Bộ Trưởng Nội Vụ Võ
Nguyên Giáp đã ký nghị định giải tán Hội Khai Trí Tiến Đức và cho Hội Văn Hóa
Cứu Quốc tư cách pháp nhân. Trong khi đó, ở các nước tiền tiến, đặc biệt là ở
Hoa Kỳ, các nghiệp đoàn giáo chức rất mạnh và được phía chính quyền kính nể.
Tương lai của các giáo chức Việt Nam, nói riêng, và nền giáo dục Việt Nam, nói
chung, quả thật không có gì sáng sủa.
Phạm Cao Dương
Quận Cam Hoa Kỳ Mùa Lễ Tạ Ơn 2016
Đăng lại có chỉnh sửa từ bài viết “Những đặc tính truyền thống cơ
bản của Nền Giáo Dục ở Miền Nam Thời Trước Năm 1975” trên Nhatbaovanhoa.com
No comments:
Post a Comment