Nghi vấn về nguyên tác
bài thơ "Tiên Tử Động Trung Hữu Hoài Lưu Nguyễn" của Đào Tiềm
(372-427
Theo
các nhà nghiên cứu thơ Đường thì hiện nay có hai dị bản chính quanh bài thơ bằng
chữ Hán "Tiên Tử động Trung Hữu Hoài Lưu Nguyễn" của Đào Tiềm, một bản
ta thường dùng lâu nay còn một bản của Lê Nguyễn Lưu và Hải Đà mới kham phá sau nầy. Để tìm hiểu xem hai bản
khác nhau thế nào về nội dung ý nghĩa, sẽ giúp chúng ta chọn cho mình một cách
hiểu hợp lý nhất.Trước khi tìm hiểu vấn
đề tôi xin chép ra đây nguyên tác của hai bản văn:
Tiên
nữ trong động nhớ Lưu Nguyễn
Nguyên tác chữ Hán (Bản 1):
仙子洞中有懷劉阮
不將清瑟理霓裳
塵夢那知鶴夢長
洞裏有天春寂寂
人間無路月茫茫
玉沙瑤草連溪碧
流水桃花滿澗香
晓露风灯零落盡
仙子洞中有懷劉阮
( 陶 潛)
Âm Hán Việt:
Tiên tử động
trung hữu hoài Lưu Nguyễn
Bất tương thanh sắt lý "Nghê
thường"
Trần mộng na tri hạc mộng trường.
Động lý hữu thiên xuân tịch tịch,
Nhân gian vô lộ nguyệt mang mang.
Ngọc sa dao thảo liên khê bích,
Lưu thủy đào hoa mãn giản hương.
Hiểu lộ phong đăng linh lạc tận,
Thử sinh vô xứ vấn Lưu lang!
Trần mộng na tri hạc mộng trường.
Động lý hữu thiên xuân tịch tịch,
Nhân gian vô lộ nguyệt mang mang.
Ngọc sa dao thảo liên khê bích,
Lưu thủy đào hoa mãn giản hương.
Hiểu lộ phong đăng linh lạc tận,
Thử sinh vô xứ vấn Lưu lang!
(Đào Tiềm)
Nguyên tác chữ Hán (Bản 2): Sưu tầm bởi hai tác giả Lê
Nguyễn Lưu và Hải Đà.
不將清瑟理霓裳
塵夢那知鶴夢長
洞裏有天春寂寂
人間無路月茫茫
玉沙瑤草連溪碧
流水桃花滿澗香
晓露風燈易零落
此生無處访劉郎
(
陶 潛)
Âm Hán Việt:
Bất tương thanh sắt lý "Nghê
thường"
Trần mộng na tri hạc mộng trường.
Động lý hữu thiên xuân tịch tịch,
Nhân gian vô lộ nguyệt mang mang.
Ngọc sa dao thảo liên khê bích,
Lưu thủy đào hoa mãn giản hương.
Hiểu lộ phong đăng dị linh lạc ,
Thử sinh vô xứ vấn Lưu lang!
Trần mộng na tri hạc mộng trường.
Động lý hữu thiên xuân tịch tịch,
Nhân gian vô lộ nguyệt mang mang.
Ngọc sa dao thảo liên khê bích,
Lưu thủy đào hoa mãn giản hương.
Hiểu lộ phong đăng dị linh lạc ,
Thử sinh vô xứ vấn Lưu lang!
(Đào Tiềm)
Sau khi đọc và tìm hiểu bản văn chữ Hán trong bản văn 1 và 2 tôi có vài
ý kiến quanh vấn đề nầy. Bài thơ nầy được tác giả sáng tác vào thời Đông Tấn , nghĩa là cách nay hơn 300 năm
rồi.Thời gian quá xa để chúng ta biết chắc bản nào là chính gốc, bản nào không. Trong văn học VN cũng xảy ra rất nhiều
trường hợp như vậy, ngay như câu thơ của bà Huyện Thanh Quan "Lom khom dưới
núi tiều vài chú/Lác đác bên sông chợ mấy nhà". "Chợ" mấy nhà
hay "rợ" mấy nhà? Mỗi người có cách giải thích riêng tùy theo bản văn
mình có.Tranh luận thì cứ tranh luận nhưng không có kết quả chung cuộc!
Trở lại bài thơ chữ Hán trên ,
tôi không cho rằng bản nào đúng bản nào sai. Bản 1 thấy có lý vì không lẽ một đại
thi hào như Đào Tiềm mà sáng tác một bài
thơ sai luật? Bản 2 sai? Thấy là sai nhưng ý vẫn hay nên ông muốn viết như vậy?
Ngày nay người ta khám phá ra nhiều bài thơ Đường nổi tiếng mà không giữ đúng
luật thơ (gọi là phá thể). Thử xét bản 1 và 2 , câu thứ 7 "Hiểu lộ phong
đăng dị linh lạc" , tôi có nhận xét dưới đây về sự khác biệt:
Trong
bản văn thứ nhất câu thứ 7 "晓 露风灯零落盡
" ( âm Hán Việt là "Hiểu lộ phong đăng linh lạc tận") . Nhóm từ "linh lạc tận" (零落盡) trong đó chữ "lạc" nằm ở vị trí thứ 6 trong câu,nó là thanh trắc,hiệp thanh với chữ thứ 2 "lộ" trong bài thơ thất ngôn bát cú, luật bằng vần bằng. Về nghĩa ta thấy chữ "lạc" là rơi, chữ "tận" là hết. Nghĩa nguyên câu "hiểu lộ phong đăng linh lạc tận" là "sương móc ban mai tan , đèn trước gió tắt".
Bây
giờ ta xét bản văn thứ 2:
Nhưng trước hết tôi xin chép lại nguyên văn bài dịch văn xuôi và bài dịch thơ của tác giả Lê Nguyễn Lưu để các bạn tiện tham khảo (sách "Đường thi tuyển dịch" của Lê Nguyễn Lưu , quyển 2, trang 1158, nhà xb Thuân Hoá 2007):
Nhưng trước hết tôi xin chép lại nguyên văn bài dịch văn xuôi và bài dịch thơ của tác giả Lê Nguyễn Lưu để các bạn tiện tham khảo (sách "Đường thi tuyển dịch" của Lê Nguyễn Lưu , quyển 2, trang 1158, nhà xb Thuân Hoá 2007):
Dịch xuôi:
Tiên trong động nhớ Lưu Nguyễn
Không
đem đàn sắt nhẹ ra gảy khúc Nghê Thường,
Người trong mộng trần biết đâu mộng tiên là dài!
Trong
động có bầu trời riêng, cảnh xuân vắng lặng,
Nhân
gian không lối đi về, ánh trăng bát ngát.
Cỏ tiên trên bãi cát ngọc
xanh biếc bên khe,
Hoa
đào trên dòng nước chảy, mùi thơm khắp suối.
Móc ban mai,đèn trước gió, dễ tan, dễ tắt.
Kiếp nầy không có nơi đâu hỏi tìm được chàng Lưu!
(Lê nguyễn Lưu)
Dịch thơ:
Một khúc Nghê Thường chẳng dạo đâu!
Mộng trần sao biết mộng tiên lâu?
Riêng
trời trong mộng xuân man mác,
Khuất lối về xuôi nguyệt dãi dầu...
Cát
ngọc cỏ ngà khe thắm sắc,
Hoa
đào nước chảy suối thơm mầu.
Sương mai đèn gió mong manh kiếp,
Nay
hỏi chàng Lưu biết ở đâu?
( Lê Nguyễn Lưu)
Câu thơ: 晓露風燈易零落((Hiểu lộ phong đăng dị linh lạc).Nhóm từ ngữ "dị linh lạc"(易零落) thì
chữ "linh" ở vị
trí thứ 6 trong câu, nó vần bằng,
trong khi đó thì chữ thứ 2 là "lộ"
vần trắc. Bản
văn nầy khác bản văn thứ
nhứt ở chỗ nó không có chữ "tận" mà có chữ
"dị"(dễ)và xếp chữ "linh" nằm
giữa chữ "dị"
và "lạc". Dịch
nguyên câu là "Sương
móc ban mai , đèn trước
gió,dễ tan, dễ tắt".
Tôi muốn chia sẻ với các bạn là bài thơ tuy hay nhưng vướng một khuyết
điểm mà tôi không thể không nói tới, đó là tác giả đã phạm luật bằng trắc. Nếu
cho rằng đây là bài thơ cổ phong hay phá cách thì miễn bàn nhưng qua phân tích
về thể loại, phép đối, luật bằng trắc thì ta có thể nói đây là bài thơ thất
ngôn bát cú Đường luật .Thử xét câu 7
trong bài thì thấy chữ thứ 6 "linh" phải là thanh trắc theo luật
bằng trắc quy định, kéo theo chữ thứ 5 "dị" theo lẽ thanh bằng, nay đổi
ra trắc.Như vậy rõ ràng tác giả phạm luật thơ Đường (chữ thứ 6 ở trên) và rơi
vào khổ độc (chữ thứ 5 ở trên) nên khi đọc lên ta không nghe êm tai.May mắn là
ý không những giữ được mà còn làm sáng tỏ thêm sự "dễ tan, dễ tắt" của
sương móc và đèn dầu trước phong ba bão tố bằng từ ngữ "dị linh lạc".
Như vậy ta không thể xếp bài thơ nầy vào loại thất ngôn bát cú truyền thống được.Ta
có thể nói thêm trường hợp phạm luật thơ nầy là do tác giả không sáng tác bài
thơ vào thời Đường vì không sanh ra trong gian đoạn nầy mà sinh ra
(năm 372) đời Tấn và mất năm 472 vào đời
Đông Tấn (thời Lục Triều). Thời nầy thể
thơ Đường luật chưa phổ biến thành phong trào nên luật thơ Đường chưa quy định bằng trắc nghiêm ngặt nên tác giả phạm lỗi
chăng? Như thế ta không lạ gì khi xếp bản văn nầy vào loại dị bản chính, như bản
văn thứ nhứt, mà tác giả Lê Nguyễn Lưu đã sưu tầm được.
Thử xét thêm bài thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu,
để thấy rằng ông cũng phạm luật bằng trắc ( vô tình hay cố ý?) trong thơ Đường
luật. Tác giả sinh ra vào thời Đường (704-754), sáng tác nhiều bài thơ hay và
có những sinh hoạt thơ văn vào thời nầy.
Tôi xin đăng nguyên bài thơ để các bạn thưởng thức bài thơ độc đáo nầy.
Chữ Hán:
黃鶴樓
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
Hán-Việt:
Hoàng Hạc Lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch
vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Lầu
Hoàng Hạc
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc
Hạc
vàng một khi bay đi đã không trở lại
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không
Mặt
sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một
Cỏ
thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!
(bản dịch
của Wikipedia)
Mà đây Hoàng hạc riêng lầu còn trơ
Hac vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bài ca anh Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Đọc bài thơ trên để nhận ra vài sai sót của
tác giả về phương diện luật bằng trắc trong thơ Đường, cho tới nay chúng ta
cũng không biết rõ là tác giả vô tình hay bất đắc dĩ để
phạm luật thơ. Ngoài ra cũng không ai đặt câu hỏi " Đây là bản chánh hay bản
phụ?" . Có một điều quan trọng là không ai phủ nhận bài thơ nấy về giá trị,
một kiệt tác văn chương cho tới bây giờ.
Bài
thơ nầy thuộc luật bằng vần trắc.
Câu 1/ chữ thứ 6 "hạc" theo lẽ phải
thanh bằng, hiệp thanh với chữ thứ 2 "nhân".
Câu 2/chữ thứ 5 "Hoàng" theo lẽ
trắc, ở đây lại bằng ( tác giả sử dụng luật "bất luận".)
Câu thứ 3/ chữ thứ 5 "bất" theo lẽ
bằng, lại trắc( sử dụng luật "bất luận")
Vì vậy có người cho bài thơ trên là một bài thơ Đường "phá thể"
hay "lạc vận".
Tóm lại trong thơ Đường có người theo đúng
luật có người không theo (gọi là phá thể hay cổ phong), mà không theo có khi lại tạo được những vần thơ hay, độc đáo.
Nguyễn
Cang
No comments:
Post a Comment