Nguyễn Nhược
Pháp và tình sử bài thơ Đi Chùa Hương
Hôm nay đi Chùa
Hương,
Hoa cỏ mờ hơi sương.
Cùng thầy me em dậy,
Em vấn đầu soi gương.
Khăn nhỏ, đuôi gà cao,
Em đeo giải yếm đào;
Quần lĩnh, áo the mới,
Tay cầm nón quai thao.
Me cười: "Thầy nó trông!
Chân đi đôi dép cong,
Con tôi xinh xinh quá!
Bao giờ cô lấy chồng?"
Em tuy mới mười lăm
Mà đã lắm người thăm,
Nhờ mối mai đưa tiếng,
Khen tươi như trăng rằm.
Nhưng em chưa lấy ai,
Vì thầy bảo người mai
Rằng em còn bé lắm!
(Ý đợi người tài trai).
Em đi cùng với me.
Me em ngồi cáng tre,
Thầy theo sau cưỡi ngựa,
Thắt lưng dài đỏ hoe.
Thầy me ra đi đò,
Thuyền mấp mênh bên bờ.
Em nhìn sông nước chẩy
Đưa cánh buồm lô nhô.
Mơ xa lại nghĩ gần,
Đời mấy kẻ tri âm?
Thuyền nan vừa lẹ bước,
Em thấy một văn nhân.
Người đâu thanh lạ thường!
Tướng mạo trông phi thường.
Lưng cao dài, trán rộng.
Hỏi ai nhìn không thương?
Chàng ngồi bên me em,
Me hỏi chuyện làm quen:
"Thưa thầy đi chùa ạ?
Thuyền đông, trời ôi, chen!"
Chàng thưa: "Vâng, thuyền đông!"
Rồi ngắm trời mênh mông,
Xa xa mờ núi biếc,
Phơn phớt áng mây hồng.
Dòng sông nước đục lờ.
Ngâm nga chàng đọc thơ.
Thầy khen: "Hay! Hay quá!"
Em nghe rồi ngẩn ngơ.
Thuyền đi. Bến Đục qua.
Mỗi lúc gặp người ra,
Thẹn thùng em không nói:
"Nam vô A-Di-Đà!"
Réo rắt suối đưa quanh.
Ven bờ, ngọn núi xanh,
Nhịp cầu xa nho nhỏ.
Cảnh đẹp gần như tranh.
Sau núi Oản, Gà, Xôi,
Bao nhiêu là khỉ ngồi.
Tới núi con Voi phục,
Có đủ cả đầu đuôi.
Chùa lấp sau rừng cây.
(Thuyền ta đi một ngày)
Lên cửa chùa em thấy
Hơn một trăm ăn mày.
Em đi, chàng theo sau.
Em không dám đi mau,
Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giàu.
Thầy me đến điện thờ,
Trầm hương khói tỏa mờ.
Hương như là sao lạc,
Lớp sóng người lô nhô.
Chen vào thật lắm công.
Thầy me em lễ xong,
Quay về nhà ngang bảo:
"Mai mới vào chùa trong."
Chàng hai má đỏ hồng
Kêu với thằng tiểu đồng
Mang túi thơ bầu rượu:
"Mai ta vào chùa trong!"
Đêm hôm ấy em mừng.
Mùi trầm hương bay lừng.
Em nằm nghe tiếng mõ,
Rồi chim kêu trong rừng.
Em mơ, em yêu đời!
Mơ nhiều... Viết thế thôi!
Kẻo ai mà xem thấy,
Nhìn em đến nực cười!
Em chưa tỉnh giấc nồng,
Mây núi đã pha hồng.
Thầy me em sắp sửa
Vàng hương vào chùa trong.
Đường mây đá cheo veo,
Hoa đỏ, tím, vàng leo.
Vì thương me quá mệt,
Săn sóc chàng đi theo.
Me bảo: "Đường còn lâu,
Cứ vừa đi ta cầu
Quan-Thế-âm-bồ-tát
Là tha hồ đi mau!"
Em ư? Em không cầu,
Đường vẫn thấy đi mau.
Chàng cũng cho như thế.
(Ra ta hợp tâm đầu).
Khi qua chùa Giải-oan,
Trông thấy bức tường ngang,
Chàng đưa tay lẹ bút
Thảo bài thơ liên hoàn.
Tấm tắc thầy khen: "Hay!
Chữ đẹp như rồng bay."
(Bài thơ này em nhớ,
Nên chả chép vào đây).
Ô! Chùa trong đây rồi!
Động thắm bóng xanh ngời.
Gấm thêu trần thạch nhũ,
Ngọc nhuốm hương trầm rơi.
Me vui mừng hả hê:
"Tặc! Con đường mà ghê!"
Thầy kêu: "Mau lên nhé!
Chiều hôm nay ta về."
Em nghe bỗng rụng rời
Nhìn ai luống nghẹn lời!
Giờ vui đời có vậy,
Thoảng ngày vui qua rồi!
Làn gió thổi hây hây,
Em nghe tà áo bay,
Em tìm hơi chàng thở.
Chàng ôi, chàng có hay?
Đường đây kia lên trời,
Ta bước tựa vai cười.
Yêu nhau, yêu nhau mãi!
Đi, ta đi, chàng ôi!
Ngun ngút khói hương vàng
Say trong giấc mơ màng,
Em cầu xin Trời, Phật
Sao cho em lấy chàng.
Hoa cỏ mờ hơi sương.
Cùng thầy me em dậy,
Em vấn đầu soi gương.
Khăn nhỏ, đuôi gà cao,
Em đeo giải yếm đào;
Quần lĩnh, áo the mới,
Tay cầm nón quai thao.
Me cười: "Thầy nó trông!
Chân đi đôi dép cong,
Con tôi xinh xinh quá!
Bao giờ cô lấy chồng?"
Em tuy mới mười lăm
Mà đã lắm người thăm,
Nhờ mối mai đưa tiếng,
Khen tươi như trăng rằm.
Nhưng em chưa lấy ai,
Vì thầy bảo người mai
Rằng em còn bé lắm!
(Ý đợi người tài trai).
Em đi cùng với me.
Me em ngồi cáng tre,
Thầy theo sau cưỡi ngựa,
Thắt lưng dài đỏ hoe.
Thầy me ra đi đò,
Thuyền mấp mênh bên bờ.
Em nhìn sông nước chẩy
Đưa cánh buồm lô nhô.
Mơ xa lại nghĩ gần,
Đời mấy kẻ tri âm?
Thuyền nan vừa lẹ bước,
Em thấy một văn nhân.
Người đâu thanh lạ thường!
Tướng mạo trông phi thường.
Lưng cao dài, trán rộng.
Hỏi ai nhìn không thương?
Chàng ngồi bên me em,
Me hỏi chuyện làm quen:
"Thưa thầy đi chùa ạ?
Thuyền đông, trời ôi, chen!"
Chàng thưa: "Vâng, thuyền đông!"
Rồi ngắm trời mênh mông,
Xa xa mờ núi biếc,
Phơn phớt áng mây hồng.
Dòng sông nước đục lờ.
Ngâm nga chàng đọc thơ.
Thầy khen: "Hay! Hay quá!"
Em nghe rồi ngẩn ngơ.
Thuyền đi. Bến Đục qua.
Mỗi lúc gặp người ra,
Thẹn thùng em không nói:
"Nam vô A-Di-Đà!"
Réo rắt suối đưa quanh.
Ven bờ, ngọn núi xanh,
Nhịp cầu xa nho nhỏ.
Cảnh đẹp gần như tranh.
Sau núi Oản, Gà, Xôi,
Bao nhiêu là khỉ ngồi.
Tới núi con Voi phục,
Có đủ cả đầu đuôi.
Chùa lấp sau rừng cây.
(Thuyền ta đi một ngày)
Lên cửa chùa em thấy
Hơn một trăm ăn mày.
Em đi, chàng theo sau.
Em không dám đi mau,
Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giàu.
Thầy me đến điện thờ,
Trầm hương khói tỏa mờ.
Hương như là sao lạc,
Lớp sóng người lô nhô.
Chen vào thật lắm công.
Thầy me em lễ xong,
Quay về nhà ngang bảo:
"Mai mới vào chùa trong."
Chàng hai má đỏ hồng
Kêu với thằng tiểu đồng
Mang túi thơ bầu rượu:
"Mai ta vào chùa trong!"
Đêm hôm ấy em mừng.
Mùi trầm hương bay lừng.
Em nằm nghe tiếng mõ,
Rồi chim kêu trong rừng.
Em mơ, em yêu đời!
Mơ nhiều... Viết thế thôi!
Kẻo ai mà xem thấy,
Nhìn em đến nực cười!
Em chưa tỉnh giấc nồng,
Mây núi đã pha hồng.
Thầy me em sắp sửa
Vàng hương vào chùa trong.
Đường mây đá cheo veo,
Hoa đỏ, tím, vàng leo.
Vì thương me quá mệt,
Săn sóc chàng đi theo.
Me bảo: "Đường còn lâu,
Cứ vừa đi ta cầu
Quan-Thế-âm-bồ-tát
Là tha hồ đi mau!"
Em ư? Em không cầu,
Đường vẫn thấy đi mau.
Chàng cũng cho như thế.
(Ra ta hợp tâm đầu).
Khi qua chùa Giải-oan,
Trông thấy bức tường ngang,
Chàng đưa tay lẹ bút
Thảo bài thơ liên hoàn.
Tấm tắc thầy khen: "Hay!
Chữ đẹp như rồng bay."
(Bài thơ này em nhớ,
Nên chả chép vào đây).
Ô! Chùa trong đây rồi!
Động thắm bóng xanh ngời.
Gấm thêu trần thạch nhũ,
Ngọc nhuốm hương trầm rơi.
Me vui mừng hả hê:
"Tặc! Con đường mà ghê!"
Thầy kêu: "Mau lên nhé!
Chiều hôm nay ta về."
Em nghe bỗng rụng rời
Nhìn ai luống nghẹn lời!
Giờ vui đời có vậy,
Thoảng ngày vui qua rồi!
Làn gió thổi hây hây,
Em nghe tà áo bay,
Em tìm hơi chàng thở.
Chàng ôi, chàng có hay?
Đường đây kia lên trời,
Ta bước tựa vai cười.
Yêu nhau, yêu nhau mãi!
Đi, ta đi, chàng ôi!
Ngun ngút khói hương vàng
Say trong giấc mơ màng,
Em cầu xin Trời, Phật
Sao cho em lấy chàng.
Nguyễn Nhược Pháp
Chúng ta thường biết đến nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp qua bài thơ: Đi chùa Hương, nhưng ít người biết đến đời sống và tình yêu của nhà thơ này. Bài này gồm 2 phần:
Phần 1: Tuổi thơ Nguyễn Nhược Pháp, chuyện ít
người biết
- Hai tuổi mồ côi mẹ, hưởng dương tròn hai Giáp
(24 năm), người con trai của học giả Nguyễn Văn Vĩnh thật là điển hình của sự
bất công tạo hóa. Thế nhưng tạo hóa đã bù lại, ban cho con người những
thiên bẩm, tài hoa đặc biệt. Đó là một trang nam nhi tuấn tú, đa tài, gắn trên
bầu trời thi ca nước Việt những ánh sao lung linh
Nguyễn Nhược Pháp là kết quả mối tình sét đánh giữa học giả Nguyễn Văn
Vĩnh, một người đa tài, đa tình đất Hà thành và cô gái Lạng Sơn, Phan Thị Lựu.
Năm 1913 ông Vĩnh có khách sạn Trung Bắc ở nhà
50 phố Hàng Trống, gần hồ Gươm - Hà Nội… Cô Lựu thường qua lại trọ ở khách sạn,
nên quen biết ông Vĩnh. Rồi do duyên số, họ nên vợ nên chồng. Khách sạn
Trung Bắc nằm trong khuôn viên rộng mấy nghìn mét vuông. Mặt trước quay chính
phố Hàng Trống, mặt sau quay ra phố Lý Quốc Sư. Cả hai mặt đều có cổng lớn, bên
trong xung quanh có vườn, cây cối xanh tươi và cổ thụ. Giữa khuôn viên này là
một biệt thự ba tầng, trang bị hiện đại để làm nhà khách sạn.
Bà Phan Thị Lựu ở tầng hai. Tại mảnh đất thơ
mộng này, ngày 12-12-1914, Nguyễn Nhược Pháp ra đời, sau này tên tuổi in đậm
trong “Thi nhân Việt Nam”. Ông Vĩnh đi làm, đến trưa thì nghỉ lại khách
sạn với người vợ hai, tối mới về phố Mã Mây với vợ cả và các con. Tưởng thế cũng
là yên ổn, nhưng số phận con người đa tài, đa tình lại vướng bận thêm nhiều và
không thể dừng ở đó. Vừa tuổi lên 2 (năm 1916), Nguyễn Nhược Pháp mồ côi
mẹ. Khi biết tin ông Vĩnh có thêm một người đàn bà khác, mà là một cô đầm lai
đẹp như thiên thần, thì Phan Thị Lựu không làm chủ được tình cảm của mình. Nỗi
ghen tuông đã trào lên và bà đã tìm cái chết để giải thoát. Chập chững
những bước chân trên đường đời, Nguyễn Nhược Pháp được bà Đinh Thị Tính - vợ cả
ông Vĩnh - mẹ cả đón về nuôi như con đẻ, với một câu thở than: Cái bà Lựu ghen
ngược. Người ghen phải là tôi…
Từ đó cho đến lúc lìa đời, suốt 22 năm (1916-
1938), Nguyễn Nhược Pháp đều sống với những người anh em cùng cha khác mẹ,
trong một đại gia đình, thật vui vẻ và nhiều kỷ niệm sâu sắc. Đọc những
trang hồi ức của những người thân trong gia đình phần nói về tuổi thơ Nguyễn
Nhược Pháp, mới thấy rằng đây là một con người có nhiều phẩm chất cao quý, khi
còn ấu thơ.
Năm 1923, gia đình Nguyễn Văn Vĩnh đã chuyển từ
phố Mã Mây về phố Thụy Khuê, trước trường Bưởi (trường Chu Văn An bây giờ) gần
hồ Tây. Đây là một trong những tài sản lớn của ông F.H Schneider- một
người Pháp, vốn là đồng nghiệp làm nhà in, xuất bản báo, vì yêu mến ông Vĩnh đã
chuyển nhượng cho trước khi ông này về hưu ở cố quốc. Nhà ông Vĩnh đông
người, nhiều con, lại thêm bạn các con ở tỉnh lẻ về ở nhờ để tiện bề ăn học…
vậy mà vẫn rất thoải mái. Gia sản đất đai của Schneider là một khu đất
rộng hơn ba nghìn mét vuông. Trong này có biệt thự hai tầng, có xưởng máy giấy
mái vòm, bê tông cốt thép, không cột. Ông Vĩnh sửa lại thành nhà thờ và nhiều
phòng để ở. Có mười gian nhà ngang, có bếp, nhà để xe, các phòng cho người nhà
sinh hoạt…
Bấy giờ hai người con lớn của bà Vĩnh là Nguyễn
Hải và Nguyễn Giang đang đi học ở nước ngoài. Còn ba người con gái: Nguyễn Thị
Loan, Nguyễn Thị Nội, Nguyễn Thị Vân đã lớn, được ở khu biệt thự với bà Vĩnh và
một người cô ruột là bà Nguyễn Thị Tý, làm dược sỹ ở nhà thương Phủ Doãn…
Nguyễn Nhược Pháp được ở chung với 7 anh chị em còn nhỏ tuổi ở khu nhà
ngang. Trong đó có Nguyễn Thị Mười, Nguyễn Dực, Nguyễn Hồ còn quá nhỏ,
không tự lực được trong sinh hoạt, nên có một u già trông nom… Họ sống rất
thoải mái, tự do và khép kín, tự quản, dường như người lớn không ai để ý
đến… Buổi sáng hằng ngày, Nhược Pháp cùng anh chị em học chữ nho khoảng
nửa giờ do ông tú tài Phùng Năng Tĩnh người Bát Tràng làm gia sư, dạy dỗ. Rồi
họ đạp xe đi học trường tư. Mọi sinh hoạt khác như giặt quần áo, cơm nước đã có
người lo hết. Trong số 7 anh em, Nhược Pháp là con bà hai, được coi là anh,
mặc dù sinh sau Nguyễn Dương (con mẹ cả) mấy tháng.
Thời xưa xã hội coi những người con vợ bé, chỉ
là con thêm vợ nhặt. Nhưng nhà ông Vĩnh không hành xử theo lối ấy. Theo
kể lại, Nguyễn Nhược Pháp thông minh, đẹp trai, học giỏi có đầu óc tổ chức,
nhiều sáng kiến, làm đầu tầu cho các em trong các hoạt động, sinh hoạt thể
thao, vui chơi rất văn hóa. Nhược Pháp có sáng kiến làm một bản hợp đồng
nội bộ, cấm nói nhảm nhí. Cậu soạn ra khoảng 50 câu thông dụng hằng ngày mọi
người cần tránh, ví như những từ ngữ: đếch, bỏ mẹ, bỏ xừ…, hoặc những câu chửi
thề không ai được nói… Ai lỡ lời nói, người nào nghe thấy, có quyền cốc vào
đầu, véo tai, coi như một hình thức phạt. Nhược Pháp bày trò tập bơi. Khi
thì hồ Tây, khi thì ra ao đình làng Thụy Khuê, lúc đến hồ Trúc Bạch. Bảy anh em
đều biết bơi kể cả con gái. Nhược Pháp yêu môn bơi lội nhất. Cho tới những ngày
mới bị bệnh, anh vẫn chưa chịu bỏ bơi. Ngày chủ nhật, Nhược Pháp tổ chức
đua xe quanh Hồ Tây, có giải thưởng, thu hút các bạn học cùng tham gia. Lại tổ
chức trượt pa-tanh. Ban đầu chơi trên đường Hoàng Hoa Thám, sau đường đua dài
đến Quần Ngựa, vòng trở về lối Thụy Khuê… Rồi tổ chức tham quan du lịch bằng xe
đạp, quanh Hồ Tây, rồi quanh Hà Nội và đi xa hơn.
Mỗi tuần, cha thường cho các con tiền đi xem
chiếu bóng, Nhược Pháp rủ rê mấy anh chị lớn hơn, để dành tiền ấy, làm vốn in
báo Tuổi Cười. Nhược Pháp làm chủ nhiệm, Nguyễn Phổ làm chủ bút, Nguyễn Kỳ quản
lý nhà in. Báo in thạch, hai màu đỏ và tím. Mỗi tháng một số, có 16
trang, khổ 15x20 cm. Nội dung tờ báo là thông báo những tin tức gia đình, nêu
tên ai học giỏi, phê phán những việc xấu. Lại có trang thể thao, biểu dương kỷ
lục mới( trong gia đình ), có quảng cáo các buổi diễn kịch, diễn xiếc do anh
chị em tổ chức trong nhà. Trang cuối có in thơ của Nhược Pháp sáng tác.
Mỗi số ra 10 tờ, bán 5 xu cho người lớn và các anh chị lớn. Báo phát hành được
mấy năm. Sau này lớn lên, Nhược Pháp đã chọn những bài thơ trong báo Tuổi Cười,
thành tập thơ Ngày Xanh. Nhược Pháp còn tổ chức một đội kịch gia đình, mà
chính anh viết kịch bản và đạo diễn… Các anh chị em làm diễn viên. Nhà có
xưởng in rộng, họ kê bàn ghế thành sân khấu, tạm dùng câu đối nhà thờ trang
trí, lại làm phông màn, chăng điện… nghĩa là như sân khấu thật. Giá vé 5 xu một
chỗ ngồi. Những người lớn trong nhà cũng mua vé và ngồi xem cổ vũ con em
mình… Có buổi ông Vĩnh cũng ngồi xem các con diễn, ông thấy lòng tràn ngập niềm
vui… Nhược Pháp còn hướng dẫn thành lập đội xiếc, phân vai diễn: Người diễn
xiếc xe đạp, người làm ảo thuật,, người dậy thú, người thổi kèn. Nguyễn
Nhược Pháp có những thú vui thật giản dị, không giống bất cứ một thiếu gia nào
thời bấy giờ. Chăm chỉ học hành, yêu quý mọi người, và biết tự lập. Viết xong
một bài thơ, một truyện ngắn, vở kịch…khi có tiền nhuận bút thì rủ một hai em,
hay vài bạn bè đi ăn phở xách Nghi Xuân bang thất ở phố Hàng Đàn, giá 5 xu một
bát… Nhược Pháp đã viết được một số vở kịch, và có một ước mơ, là cùng
với Phạm Huy Thông, bạn học thời ở Trung học Albert Saraut, tri kỷ văn chương,
cùng nhau tổ chức một Đoàn kịch không chuyên, đưa lên sân khấu vở kịch Người
học vẽ của mình.
Nhược Pháp như một trang giấy trắng thơm, một
bông hoa thanh khiết. Vào những năm cuối đời, trái tim chàng thi sỹ, tác giả
bài thơ Chùa Hương đã xôn xang trước một cô gái áo đen, phố Hàng Đẫy, như một
lời tỏ tình. Đó là một tiểu thư, một trong tứ mỹ Hà thành bấy giờ. Hằng
ngày đạp xe qua nhà, đứng bên này đường nhìn vào vườn nhà em, ngắm nhìn bóng em
thấp thoáng. Rồi hình ảnh cô gái áo đen trong vườn của nhà họ Đỗ ở phố Hàng
Đẫy, cứ sống mãi trong tim Nhược Pháp... Nhược Pháp chưa tường mặt thân
mẫu của mình, nhưng được mẹ cả hết lòng yêu thương, như con đẻ. Trước khi nhắm
mắt ra đi về cõi vĩnh hằng, bà dặn lại Hãy đặt mộ của tôi nằm bên cạnh Nhược
Pháp.
Nguyễn Nhược Pháp sinh ra là hoạt động, cả đến
khi nhuốm bệnh vẫn không ngừng ý chí vươn lên vượt qua số mệnh. Từ 2 tuổi
Nhược pháp sống với mẹ cả ở Mã Mây rồi đi học vỡ lòng. 6 năm tiếp theo học phổ
thông trường Trí Tri (phố Hàng Đàn và Trung Bắc học hiệu- phố Lý Quốc Sư). 14
tuổi thi đỗ lớp 6 Trường trung học Albert Saraut. 20 tuổi đỗ tú tài phần nhất,
1935 đỗ tú tài phần hai, vào Đại học luật. Nhược Pháp luôn học giỏi, xứng đáng
cho các em noi theo. Từ năm 1930 trở đi, kinh tế gia đình Nguyễn Văn Vĩnh
bắt đầu khó khăn trầm trọng. Nguyễn Nhược Pháp vừa đi học để thi tú tài, thi
đại học Luật, vừa làm ở tòa báo An Nam mới, viết thơ… để có tiền nhuận bút,
giảm bớt chi tiêu của gia đình cho mình… Từ sau khi chị Nội đang đi học
Luật năm thứ ba mắc bệnh mất (1933), rồi cha mất( 1936), chị Vân mất( 1938), và
tin anh Hải mất trong Nam… Nhược Pháp buồn đau, nhuốm bệnh lao hạch…
Ngày 19-11-1938 ông trút hơi thở cuối cùng tại
Bệnh viện Đồn Thủy, hưởng dương 24 tuổi. Ông để lại ba bức thư. Một bức
viết bằng chữ Pháp, cám ơn các thầy thuốc đã hết lòng cứu chữa. Một bức thư
vĩnh biệt mẹ cả và gia đình( khi ấy ông Vĩnh mất được hai năm). Một
bức gửi cho người anh là nhà thơ Nguyễn Giang, với tâm nguyện, hãy chăm sóc mẹ
cả và các em nhỏ tốt hơn nữa. Ban đầu, thi hài Nhược Pháp được mai táng ở
nghĩa trang Hợp Thiện, Quỳnh Lôi, Mai Động, Hà Nội, sau được bốc mộ về làng
Phượng Dực, quê cha.
Phần 2: Giai nhân áo
đen của Nguyễn Nhược Pháp
Người đẹp áo đen
Nếu như cuộc đời của người đẹp Vương Thị Phượng
phố Hàng Ngang đúng là “hồng nhan bạc phận” thì cuộc đời của người đẹp thứ hai
trong “Hà thành tứ mĩ” lại bình lặng hơn nhiều. Bây giờ, ngồi trong căn nhà
biệt thự Pháp ở số 3A, phố Yên Thế bà Đỗ Thị Quyên, em gái bà Bính đã ngấp nghé
tuổi 90 nhưng trên khuôn mặt lẫn nụ cười dáng vóc vẫn phần nào cho thấy vẻ đẹp
của người chị gái từng được mệnh danh là “giai nhân Hà thành” khi xưa.
Nhấp chén nước, giọng sang mà ấm, bà Quyên nhớ
lại: Đỗ Thị Bính sinh năm 1915, là kiều nữ của cụ Đỗ Lợi, nhà tư sản thầu khoán
lớn nhất Hà Thành khi đó. Cụ Đỗ Lợi thuộc dòng họ Đỗ thôn Tiên Lữ (Lập Thạch,
Vĩnh Phúc). Vốn làm việc trong sở Lục lộ, vừa giàu có lại tài năng, lên
Hà Nội, ông lấy bà Nguyễn Thị Quỹ, một người con gái xinh đẹp, sắc sảo làm nghề
buôn bán tại Phà Đen làm lẽ. Đỗ Thị Bính là người con đầu trong ba người con của
ông Lợi và bà Quỹ.
Những năm 1930, ông Đỗ Lợi là nhà tư sản có
tiếng ở Hà thành. Những người già cả ở Ngõ Văn Hương bây giờ hẳn vẫn còn nhớ
ngõ Đỗ Lợi, hồ Đỗ Lợi và trại sản xuất gạch hoa Vạn Cẩm, nơi ông sản xuất gạch
hoa, đúc cống xi măng cung cấp cho các công trình xây dựng của người
Pháp. Công việc kinh doanh phát đạt, ông Đỗ Lợi chuyển sang lĩnh vực thầu
khoán. Gần hai mươi công trình lớn ở Hà Nội khi đó đều do Đỗ Lợi làm chủ thầu.
Giàu có, trại gạch hoa Vạn Cẩm khi đó còn là nơi nhà tư sản nuôi hàng chục con
ngựa đua, một thú chơi công phu và thuộc vào hàng xa xỉ lúc bấy giờ. Đang
học lớp nhì tại trường Brieux, tên thông thường là trường Hàng Cót, một buổi
chiều tan học, trong lúc mải ríu rít với bè bạn, Đỗ Thị Bính bị một chiếc xe
hơi cán phải. Lo lắng cho cô con gái rượu, cụ Đỗ Lợi đã không cho người đẹp đến
trường mà mời thầy về nhà để dạy riêng. Với tư chất thông minh và sự ham học,
bà Bính vừa thông thạo tiếng Pháp lại có thể chơi được đàn thập lục hay dương
cầm.
Trong số hơn chục nhà biệt thự ở rải rác ở khắp
Hà Nội, gia đình bà Bính sinh sống ở căn nhà số 30 Nguyễn Thái Học, ngày xưa là
phố Hàng Đẫy. “Chị tôi có thói quen mặc đồ đen nên người đương thời thường gọi
là “người đẹp áo đen”. Nếu được ông bà mua cho quần áo khác màu thì cất
đi hoặc cho em chứ tuyệt nhiên không mặc màu gì khác ngoài màu đen. Màu đen đã
làm cho vẻ đẹp của giai nhân thêm vẻ huyền bí, tôn thêm làn da trắng, sự sang
trọng, nghiêm trang của người đẹp”, bà Đỗ Thị Quyên cho biết. Mặc dù là
người có vẻ đẹp nhất nhì Hà thành khi đó, thế nhưng, người đẹp không hề có tính
kiêu sa của những tiểu thư khuê các. Trái lại, bà Bính nhất mực hoà đồng, giản
dị và gần gũi với mọi người. Trong trí nhớ của người em gái thì bà Bính có một
khuôn mặt trái xoan, đặc biệt là tính tình hiền hậu, nhân từ, dịu dàng. “Chị
tôi ăn chay, không ăn thịt cá bao giờ. Xuân về gia đình lại đi chùa Hương cầu
kinh niệm Phật. Mỗi khi đi nghỉ ở Sầm Sơn, thấy trẻ con xách lồng chim đi bán,
chị tôi gọi lại mua hết rồi mở cửa lồng cho chim bay đi”.
“Bóng hồng” trong thơm
Trong bao nhiêu trái tim mê đắm người đẹp có
chàng thi sĩ tài hoa Nguyễn Nhược Pháp – con trai của Nguyễn Văn Vĩnh, ông chủ
nhà in Trung Bắc Tân Văn lớn nhất Bắc Kỳ lúc bấy giờ. Ngang tàng hay bình dân
chả biết, nhưng cụ Vĩnh sau lần đi Pháp đã đặt luôn cái tên ấy cho cậu con trai
sinh cuối năm 1914. Sau khi đậu tú tài rồi vào trường Cao đẳng Luật Đông Dương,
Nguyễn Nhược Pháp không sung vào bất kỳ ngạch quan lại lẫn công chức nào mà đi
làm văn, làm báo...
So về tuổi tác, Nguyễn Nhược Pháp hơn người đẹp
Bính một tuổi. Chàng thư sinh nhỏ bé, với sự yếu đuối thư sinh, với cái bẽn lẽn
của một hồn thơ mộng mơ đã thầm thương nhớ trộm cô tiểu thư Đỗ Thị Bính tự bao
giờ. Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ. Cho nên, để biết cái vẻ “sắc nước
hương trời” của một trong bốn “mỹ nhân Hà thành” xưa, chỉ cần đọc tập thơ Ngày
xưa cũng đủ để hình dung chân dung Đỗ Thị Bính “Tóc xanh viền má hây hây
đỏ/Miệng nàng bé thắm như san-hô/Tay ngà trắng nõn, hai chân nhỏ”.
Đó là sự hồn nhiên của cô gái đi trây hội Chùa
Hương: “Cùng thầy me em dậy/ em vấn đầu soi gương/ Khăn nhỏ đuôi gà cao/ Lưng
đeo dải yếm đào/ Quần lĩnh áo the mới/ Tay cầm nón quai thao …”. Là “Cúi đầu
nàng tha thướt/Yêu kiều như mây qua/Mắt xanh nhìn man mác/ mỉm cười về cành
hoa…” Trước hiên nhà ở phố Nguyễn Thái Học có hai giò phong lan và đặc
biệt ba rặng hoa hồng nở hương thơm ngát. Chiều chiều, người đẹp lại ngồi nhởn
nha trên ghế đá đọc sách, ngắm hoa. Khi ấy, Nguyễn Nhược Pháp đang làm việc tại
tòa báo L’ Annam nouveau. Ngày nào chàng thi sĩ cũng kiếm cớ đi qua đi
lại ngôi nhà có người đẹp ở, để được nhìn thấy nàng cho khuây nỗi nhớ. “Ta lặng
nhìn hơi lâu/Nhưng thì giờ đi mau...Nàng chợt nghiêng thân ngà/Thoáng bóng
người xa xa...Ta mơ chưa lại hồn/Nàng lẹ gót lầu son/Vừa toan nhìn nét
phượng/Giấy thẹn bay thu tròn...” Chuyện này kéo dài và cả hai gia đình
đều biết. Gia đình cô Bính cho là chuyện phải lòng của anh chàng nhà thơ trẻ
cũng như nhiều chàng trai khác si mê người đẹp mà thôi. Bằng cớ là mỗi dịp xuân
tới, người đẹp Đỗ Thị Bính vẫn nhận được rất nhiều hoa từ những địa chỉ vô
danh.
Mỗi bài thơ của chàng thi sĩ là một nét đẹp của
người con gái khuê các áo đen, là chất chứa bao niềm thương nhớ. Nhưng năm
1938, căn bệnh lao đã cướp đi sinh mệnh của nhà thơ tài hoa ở tuổi hai tư. Để
rồi, tình yêu của tài tử, giai nhân được lưu giữ trong tập thơ mang tên “Ngày
xưa” tha thiết ấy…
Cuộc đời bình dị
Sau khi Nguyễn Nhược Pháp mất được một năm, gia
đình thuyết phục cô Bính lấy một chàng trai du học bên Pháp về. Đó chính là Bùi
Tường Viên, em trai út của Luật sư nổi tiếng Bùi Tường Chiểu. Mười sáu tuổi,
Bùi Tường Viên sang Pháp học về ngành silicat và là một trong những kỹ sư đầu
tiên của Việt Nam. Đám cưới giữa người đẹp phố hàng Đẫy và nhà trai ở phố Quán
Thánh với hàng chục xe ô tô rước dâu hạng sang được xem là một trong những đám
cưới lớn nhất ở Hà thành thời bấy giờ.
Chiến tranh nổ ra, bà Bính hoạt động trong phong
trào bình dân học vụ, rồi cả gia đi tản cư lên mãi huyện Sơn Dương, Tuyên
Quang. Mặc dù sống giữa cảnh núi đồi heo hút nhưng hai ông bà đi đâu cũng vẫn
khoác tay nhau theo phong cách châu Âu khiến cho không ít người ngưỡng mộ. Bằng
những kiến thức cơ bản, bà đã cứu sống cho rất nhiều người thoát khỏi căn bệnh
sốt rét hiểm nghèo, trong đó có cả những người con của chính mình. Đất
nước hòa bình. Trở về Hà Nội, bà Bính lại cùng chồng, con sống cuộc sống bình
thường trong một ngôi nhà giản dị. Tất cả mười tám ngôi biệt thự khang trang
của nhà tư sản Đỗ Lợi lúc bấy giờ đã hiến tặng cho Chính phủ. Bà tích cực tham
gia phong trào bình dân học vụ, chống giặc dốt. Từ đó cho đến khi về hưu, bà
công tác tại Phòng Giáo dục khu Hai Bà Trưng. Trong ký ức của những người
con, người đẹp Đỗ Thị Bính là một giai nhân tài sắc vẹn toàn. “Ngay đến bữa ăn
cùng gia đình chồng, khi nào mẹ tôi cũng là người ăn sau cùng, phục vụ cho bố
mẹ chồng, chồng con ăn trước… Cho đến những ngày tháng cuối đời, bà vẫn
giữ thói quen không bao giờ đến ăn ở các hàng quán, mà nhất mực trung thành với
những món ăn do tự tay mình chế biến”, ông Bùi Tường Quân, con trai Bà Bính cho
biết.
Ông Bùi Tường Quân, con trai út của người đẹp Đỗ
Thị Bính và bức ảnh của người đẹp được "truyền thần" sang chiếc đĩa
sứ.
Người đẹp Đỗ Thị Bính đã cùng chồng đi qua cuộc
chiến tranh, sống cuộc sống bình dị như biết bao người Hà Nội khác. Trở về với
đất, gia đình, người thân khoác cho bà bộ quần áo nhiễu đen quen thuộc, như là
một sự trân trọng với vẻ đẹp của người phụ nữ Hà Nội một thời.
No comments:
Post a Comment