Khi Thằng Du Kích Trả Thù
Viết tặng CTN, người đã làm quen với rừng
lá cao su từ khi mới vào đời
1
Đám
công nhân cạo mủ, khoảng vài chục người,
trai có gái có, sau khi đổ hết mấy thùng thiếc đầy mủ cao su mà họ đã trút, từ
phần cây của mình vào bồn chứa lớn bằng xi măng, tụ năm tụ ba, ngồi rãi rác
trên khoảng sân gạch cũ loang lỡ màu nâu đậm, bên cạnh căn đầu dãy nhà, do chủ
đồn điền người Pháp xây lên cho công nhân ở từ những năm 50, 51, giờ bỏ trống gần
hết, không còn mấy ai ở vì Cầu Khởi không là vùng an ninh cho lắm. Lính Nghĩa
Quân xã ít khi vào đó, trừ những đêm quân du kích Việt cộng rình mò, lén về khu
ấp Bông Trang hay Bàu Nâu quấy phá. Hơn tám giờ sáng, trời vừa có chút nắng rớt
lưa thưa đâu đó, xuyên nhẹ qua lá úa đầu Thu nhưng cũng còn lờ mờ chưa thấy rõ.
Làm nghề cạo mủ cao su tuy có đôi chút vất vả
nhưng xem ra cũng thảnh thơi, thoải mái. Chỉ có điều phải thức dậy sớm, năm giờ
là có mặt trong rừng, nơi phần cây của mình, để cạo từng cây một cho kịp giờ mủ
chảy đầy chén đựng, gắn ngay cuối phía dưới đường rảnh cắt. Sau đó mang cái
thùng thiếc, đặt ngay gốc cây đầu, rồi mặc sức mà nghỉ ngơi, ít nhất cũng hai
tiếng đồng hồ, trước khi có kẻng kêu báo đến giờ trút mủ. Có người còn kịp đạp
xe đạp về nhà ngoài chợ xã, mua bán cái này cái nọ. Mùi đất ẩm, bốc lên sau cơn
mưa lớn đêm qua vẫn còn loanh quanh trong cái nắng vừa rực lên ở phía cuối con
đường đất mịn, chạy về hướng ra quốc lộ. Tiếng mấy con dế cơm gáy vang rân,
mang theo hơi lạnh của trời vừa mới sang mùa nghe rõ từng chập. Hai ba chị ngồi
bệt xuống dưới chân cái hồ nước dùng rửa mủ, mở mớ cơm nguội bốc ra, lặng thinh
ngó nhau ăn mà không nói tiếng nào. Xa xa đôi ba tiếng súng vọng về từ miệt Khiêm Khanh Hố Bò lẻ loi
lỗi nhịp.
Từ ngoài
phía đầu đường, Thầy tư Biên cởi Honda chạy trước, chiếc xe Lam ba bánh đường
Trà Võ – Gò Dầu của anh năm Tất chở lủ
khủ đồ đạc theo sau. Bóng nắng rực lên lác đác từng mảnh nhỏ, đuổi không kịp
bóng người bóng xe, thấy rõ dần trong màn sương đang lửng thửng tan, giữa rừng cây
vừa mới bắt đầu thay lá. Đám công nhân gọi nhau ơi ới, đứng lố nhố nhìn, người
nào người nấy miệng chào thầy tư lia lịa. Mấy ông cai thì lớn tiếng kêu réo,
thúc giục dăm ba chị nào đó, còn lục đục tìm kiếm mấy ổ nấm Mối thơm phúc ở đằng
xa. Thầy tư Biên dựng xe Honda ngay trước cửa nhà, rồi làm dấu cho anh năm Tất
lái chiếc xe lam đậu dọc theo bên hông bồn chứa mủ. Mấy anh cai đứng xáp lại gần
bên, thầy tư lấy tờ giấy ca rô trong túi áo ra đưa cho anh năm Tất, phụ họ kiểm
lại số đồ xem có đủ thiếu gì không. Hôm nay là ngày công nhân cạo mủ của phần sở
mà thầy tư Biên làm giám thị, nhận quà cũng như thường lệ.
Mỗi năm, năm
nào cũng vậy, hể cứ đến ngày đầu mà tụi học trò vào học lại, sau ba tháng hè, ve
thôi kêu, Phượng ngừng nở, thì mấy thầy giám thị của các sở cao su mà mình chịu
trách nhiệm, có bổn phận sắp xếp phân phát số đồ trợ cấp gồm có cặp vỏ xe đạp,
một sợ dây sên, hai cái áo đi mưa, hai cái nón lá và năm thước vải may áo cho công
nhân. Trong vùng này có hai sở, thầy tư Biên coi sở số 1, tính dọc theo đường
quốc lộ, có ranh giới từ đầu ấp Bến Đình lên đến cuối ấp Bông Trang. Sở số 2
thì từ cuối ấp Bến Đình chạy xuống cuối ấp Bến Mương nơi có cái đồn Nghĩa Quân,
ngó ra truông nứa rộng tới sông, do thầy bảy Quanh chịu trách nhiệm. Dân chúng ở
đây, trên làng dưới ấp, ngoài thầy cô giáo của trường tiểu học ra, thì họ cũng
gọi hai ông giám thị sở cao su, tiếng thầy vì là những người có ăn có học, làm
với Pháp, nói tiếng Pháp, ngoài chợ trên đường, gặp nhau ai nấy đều tiếng một
tiếng hai, thầy Tư thầy Bảy.
Nắng trải rộng
một khoảng sáng rực đầy sân gạch, trời bắt đầu có chút nóng. Thầy tư Biên lật
cuốn sổ nhỏ, mà ông đặt nó trên bệ xi măng của bồn chứa nước từ nãy tới giờ, gọi
từng người một, đi lại phía chiếc xe lam, nơi mấy người cai đang đứng, ký tên nhận
phần của mình. Ai nấy cười nói huyên thuyên, thầy tư Biên cũng mĩm cười theo, vừa
nhìn vừa đọc tên, những cái tên mà thực ra ông đã thuộc nằm lòng. Anh năm Tất
xe lam móc gói thuốc điếu ra, đốt lửa hút, kiên nhẩn ngồi chờ. Không lâu thì mọi
việc đã xong, anh vươn vai uể oải đứng dậy, thầy tư đi lại xe, coi lần chót rồi
móc túi, chậm rãi đếm tiền trả. Xe nổ máy, anh năm gật đầu chào ông và mấy người
cai còn loanh quanh ở đó rồi từ từ lái xe chạy đi.
Cũng như mọi
lần, trước khi đám công nhân ra về, thầy tư đứng lên thềm bực xi măng hỏi xem,
họ đã nhận đủ mọi thứ chưa và có ai hỏi han gì không. Trắng, từ đầu tới giờ, đứng
ở gốc cây cao su đầu hàng, cách sân dãy nhà một khoảng không hơn mươi thước, chỗ
đó là chỗ bắt đầu phần hàng cây mà anh ta cạo, bước lại gần đám người, ngó lên
chỗ thầy tư, to tiếng:
-Vậy là tui không có đồ như năm ngoái phải không?
Thầy tư gật đầu
vừa cười vừa trả lời:
-Ừ, thì điều kiện ai được lảnh vẫn như cũ, mầy ơi.
Mấy người cai, trong đó có người cai coi Trắng và đám
công nhân còn đứng lố nhố ở đó cùng nói lớn:
-Thì cũng như cũ mà.
Trắng bước tới gần hơn chút nữa, đưa tay chỉ thầy tư
hùng hỗ:
-Tui biết ông ăn chận ăn bớt của tụi tui mấy năm nay,
tui không nói vì thấy ông già rồi, nhưng năm nay, lần này, tui không bỏ qua cho
đâu. Đ.M. Ông sẽ biết tay tui.
Thầy tư chưng hửng:
-Mầy nói tầm bậy gì vậy Trắng!
Trắng một lần nữa, nắm chặt bàn tay lại, dơ lên trời,
lắc qua lắc lại, thụt lại sau rồi quay lưng bỏ đi về phía rừng :
-Tui nói như vậy đó, ông làm gì tui, ông coi chừng đó.
Thầy tư định nói gì thêm nhưng thôi, ông lắc đầu, bước
xuống bệ xi măng, cất mớ giấy tờ và cuốn sổ nhỏ vào cái túi xách bằng da đen cũ
bạc màu, đẩy chiếc xe Honda ra đường, chào đám công nhân rồi nổ máy chạy đi.
Nghe Trắng nói
vậy, ai nấy cũng sững sờ. Điều kiện để được nhận đồ thì sở cao su nào cũng giống
nhau từ trước tới giờ, ai ai cũng biết. Công nhân nào, có nhà ở cách chỗ sở
mình cạo mủ từ ba cây số trở lên thì được cấp phát những thứ trợ cấp đó. Tại chỗ
này, trong khu nhà Pháp cất thì giờ chỉ còn khoảng mươi người ở, trong đó có Trắng.
Nhóm này có vài người làm ở sở 2 của thầy Bảy Quanh, cho nên được cấp vì sở 2
cách đây khá xa, còn Trắng chỉ cần bước
ra khỏi cửa vài bước thì đã tới hàng cây của mình rồi. Trắng, năm nay khoảng 21
hay 22 tuổi gì đó, không biết rõ quê quán ở đâu, không vợ con cha mẹ, về Cầu Khởi
xin làm công nhân cạo mủ ở sở thầy tư hơn ba năm trước đây. Tánh tình hơi cộc cằn,
nóng nảy, nói cái gì cũng đệm theo tiếng chữi thề. Từng tuổi này, Trắng trốn quân
dịch, làng xã biết nhưng không làm gì được, vì trên giấy tờ nó được hoản dịch
vì lý do tàn tật. Theo đám công nhân kể lại, thì mỗi năm, trước ngày xuống
trung tâm huấn luyện Quang Trung tái khám, Trắng dùng kim chích chấm mủ cây
xương rồng đâm vào mắt, vài hôm, mắt nó chỉ còn thấy lờ mờ, cho nên Trắng được
cho hoản dịch tiếp. Sau khi có giấy tờ về nhà, Trắng chịu cực nhá nhem vài
ngày, mắt lại nhìn rõ như thường, công nhân cùng sở số 1 này ai cũng biết nhưng
chẳng ai thắc mắc làm gì, vì thấy nó nghèo khổ đơn thân độc mã.
Ngặt nổi một
điều là Trắng làm việc rất cẩu thả, ẩu tả, không đúng cách thức mà nghề cạo mủ
phải theo. Trắng đã từng phá hư không biết bao nhiêu cây cao su vì cạo đường
rãnh cho mủ chảy ra lớn quá. Anh ta thường trút mủ sớm hơn giờ giấc ấn định,
cho nên mủ dư chảy xuống đất, đóng cứng quanh gốc cây, ai cũng thấy rành rành .
Có nhiều lần vì trút mủ sớm bỏ đi chơi cho nên số mủ không đủ thùng, Trắng bị bắt
gặp lấy nước đổ pha thêm vào đó làm hư cả một bồn lớn. Thầy tư nhiều lần khuyên
nhủ nó, nên làm việc cho đàng hoàng, cảnh cáo nó cũng nhiều lần nhưng Trắng
không đếm xỉa gì, cứ tiếp tục. Thầy tư có lúc quyết định đuổi nó nhưng nghĩ lại
thấy hoàn cảnh nghèo nàn, một thân một mình nên ông lại thôi. Mấy người cai bực
nó lắm nhưng cũng như thầy tư, họ làm ngơ, chỉ rầy rà đôi chút khi nào giận quá.
Hôm chợ
phiên cuối năm ở xã, ngày công nhân cạo mủ lảnh lương và tiền thưởng, người ta
thấy Trắng đi lên đi xuống trong đám đông người mua người bán, nói nói cười cười
với hai ba đứa con gái nào đó. Qua Tết, chiến trận lớn dần, xã giờ có thêm lính
Địa Phương Quân từ trên tỉnh xuống đóng và đã có nhiều lần hai bên đánh nhau tại
ấp trên. Đêm nào cũng có tiếng súng, tiếng người chạy đi chạy lại và tiếng chó
sủa lanh lảnh từ cuối ấp đến đầu làng. Ban đêm du kích Việt cộng thường xuyên
đào đường, đấp mô, gài mìn ngoài quốc lộ, đường lên xuống Sài Gòn – Tây Ninh,
xe đò xe hàng nối đuôi kẹt cứng tại khúc giữa Bến Mương, cầu Đá Hàng là chuyện
thường xảy ra. Mấy gia đình công nhân sống ở dãy nhà do Pháp cất tại Cầu Khởi từ
vài năm qua, đã dọn ra ngoài xã sau Tết không lâu, người ta không thấy Trắng đi
theo. Trắng không còn làm nghề cạo mủ và nó đã bỏ Cầu Khởi đi từ ngày hôm đó.
Cây Phượng già nua đứng trơ vơ, như
bóng ma mảnh khảnh trong cái bồn binh giữa khoảng đất rộng, trước sân chợ xã, dưới
ánh trăng lờ mờ cuối đêm, đong đưa mươi cánh hoa đỏ bầm cuối mùa theo chiều gió
đầu ngày rung rẩy. Cũng như mọi năm, một lần nữa, thầy tư Biên thức dậy thật sớm,
qua tiệm ông ba Lý uống lẹ ly cà phê sữa nóng, để còn kịp đi một vòng sở, từ
ngoài quốc lộ cho tới trong sâu, làm dấu số cây hư cần phải cắt bỏ, cho văn
phòng biết, trước khi công nhân có mặt vì sắp tới ngày phát đồ đạc trợ cấp cho
công nhân nay mai. Đâu đó trong rừng dăm ba tiếng dế kéo dài mệt mỏi chờ sáng,
trời vẫn còn âm u lành lạnh, khu nhà ở của công nhân vắng im rờn rợn. Thầy tư
Biên kéo cao cổ áo lên, nhấn ga chạy tiếp vào rừng phía trong sâu. Tiếng máy
Honda nổ êm êm một nhịp buồn ngủ trên con đường đất mịn thẳng tấp còn ướt đẫm
sương đêm.
Qua khỏi dãy
nhà hơn năm sáu cây số, cách chỗ giáp ranh với mấy sở cao su thuộc khu Khiêm
Hanh, Dầu Tiếng, một khoảng rừng cây rậm âm u, thêm cỏ tranh cao dầy đặc và dây
leo chằng chịt, thầy tư Biên xuống xe Honda, dùng cây đèn pin rọi về phía hàng
cây cao su cuối cùng, nằm cách ngăn phía rừng bên đó bằng một con đường mòn nhiều
cỏ dại hơn là đất trống. Đếm số cây hư xong, ông chậm rãi trở lại chỗ dựng xe.
Trong màn sương mù mờ chập chững tan, gần đó hai ba bóng người, không cầm đèn
“khí đá” như công nhân cạo mủ thường có, lố nhố đứng chờ. Vừa đến gần, nhận ra
họ chừng mười sáy mười bảy, trên tay cầm súng tiểu liên, không rõ loại gì, chỉa
về phía mình, thầy tư chưa kịp hỏi gì, thì một trong mấy tên này quát to bảo
ông đứng im. Ba tên tiến lại sát bên, tên quát to lúc nãy kê súng nhắm vào ngực
thầy tư, hai tên kia lôi trong túi xách vải ra sợi dây thừng dài, kéo tay ông
tréo ngược ra phía sau, hì hục trói chặt lại rồi dẫn ông đi theo đường mòn, qua
bên kia rừng. Mặt trời ửng lên phía ngoài xa, nhưng nắng chưa đủ sức sáng xuyên
qua những tàn lá dầy đặc. Hơi sương tiếp tục xuống, phủ kín chiếc xe Honda nằm
trơ trọi bên gốc cây cao su già gần đường, quanh quẩn đâu đó không còn nghe tiếng
dế.
Ba tên du
kích đẩy thầy tư ngồi bệt xuống trên miếng đất trống khá rộng giữa khu rừng. Một
tên bỏ đi, hai tên còn lại chỉa súng canh chừng. Không lâu sau, xuất hiện một
nhóm bốn năm tên, cũng với súng và lựu đạn, dẫn từng tốp hai ba chục người công
nhân cạo mủ từ sở của thầy tư, của thầy bảy Quanh và sở phía bên Khiêm Hanh đến.
Trời bắt đầu có chút nắng ấm, đám công
nhân hơn một trăm người, bị bọn này ra lệnh ngồi xuống, xếp thành ba bốn hàng
ngang, cách chỗ ông độ năm sáu thước, mấy tên du kích chia ra, đứng ghìm súng
phía trước hàng người ngồi và sau lưng. Thấy thầy tư bị trói, đám công nhân ồn
ào, xì xầm bàn tán nhưng không ai dám nhúc nhích khỏi hàng.
Từ một góc rừng
không xa, tên du kích bỏ đi lúc nãy, giờ trở lại với một tên xem ra lớn tuổi
hơn, mặt bịt khăn rằn đen che kín miệng mũi, mang súng ngắn, đeo túi xách vải
và trên tay cầm cuốn tập giấy học trò cũ. Một lần nữa đám công nhân nhốn nháo
lên, mấy tên du kích phía trước giơ mũi súng về hướng họ, bậm trợn hăm dọa. Tên
bịt khăn tiến tới trước mặt thầy tư, bảo tên đi theo đứng lùi sau lưng vài bước
rồi nói lớn cho mọi người biết, hôm nay là ngày tòa án nhân dân của “chính quyền
cách mạng” xử tôi ông Biên. Hắn mở cuốn tập ra, đọc bản án kể đủ thứ tội của thầy
tư, “ông Biên là tên cường hào ác bá, là tay
sai của thực dân Pháp và bọn Mỹ Ngụy, bốc lột công nhân, hà hiếp người nghèo khổ,
ăn chận ăn bớt đồ đạc để làm của riêng mình, do đó sau khi xem xét, nhân danh
nhân dân, tòa án quyết định xử tử”. Đọc xong, tên này hất hàm lớn tiếng bảo
đám công nhân phát biểu, trước khi thi hành án lệnh, thầy tư vẫn ngồi yên, điềm
tỉnh và thản nhiên. Mấy anh cai đưa mắt nhìn nhau, dường như muốn ra dấu gì đó.
Tên bịt khăn, bước tới gần thầy tư, rút cây súng ngắn ra, bảo hai tên đứng bên,
kéo ông đứng dậy, rồi dõng dạc lên tiếng, trước khi mở cái khăn khỏi mặt:-Bây giờ mấy người sẽ biết tui là ai.
-Thằng Trắng!
Đám công nhân hơn trăm người kinh ngạc, cùng thốt lên
một lượt. Trắng nhìn vào mặt thầy tư cười, một cái cười thỏa mản:
-Tui nói rồi, hôm nay là ngày ông đền tội.
Mấy tên còn
lại, mãi mê nhìn Trắng ra oai với thầy tư quên mất chuyện canh chừng. Không ai
bảo ai, một trăm mấy công nhân cùng đứng vụt lên, vừa đồng thanh la to hai chữ
“phản đối”, vừa ùa túa ra xúm lại bao vây đám du kích năm sáu tên cứng ngắt. Trắng
không kịp làm gì khác hơn, giơ cây súng ngắn bắn đại hai ba phát lên trời rồi
cùng bọn còn lại la hét, cố chống cố đở, mở vòng vây chạy đi, đám đông công
nhân tiếp tục đuổi sát theo tới bìa rừng rậm, một số người đứng ở đó nhìn theo
chữi rủa, một số khác quay lại chỗ thầy tư, ông nằm nghiêng dưới đất, mình ướt
đẩm mồ hôi và hơi sương. Mấy anh cai, phụ nhau cắt dây mở trói, rồi dìu ông về tới
phía sở cao su bên này. Chiếc xe Honda cũng còn ở đó, nhưng giờ xem ra có chút
màu sắc lóng lánh, dưới ánh nắng của trời sắp vào giữa trưa.
Một đêm mưa dầm, vài ngày hôm sau, quá
giữa khuya, súng nhỏ súng lớn nổ liên hồi, át cả tiếng mưa, nghe văng vằng từ
phía rừng cao su trong xa vọng ra suốt đêm, gần tới sáng mới im bặt hẳn. Sáng sớm,
chợ bắt đầu nhóm, mấy chục người lính Địa Phương Quân và Nghĩa Quân xã, áo quần
ướt đẩm nước mưa, đứng lố nhố quanh hai cái xác chết, để nằm trên tấm tấm vải
ni-lông màu “cứt ngựa”, có khăn rằn che mặt, dưới gốc cây Phượng già thân nhánh
khẳng khiu không còn bao nhiêu lá. Mấy
bà bán hàng bảo nhau đó là hai tên du kích Việt Cộng, bị bắn ở khu nhà Tây Cầu
Khởi, trong cuộc hành quân đêm qua của lính mình. Mặt trời ửng đỏ lên ở phía bên kia sông Vàm,
chợ bắt đầu có nắng sáng. Đám công nhân cạo mủ, chưa được phép vào rừng, tụm lại
dựng xe đạp vây quanh nhìn. Một anh cúi xuống mở cái khăn ra xem, người đứng
chung quanh, ai nấy nhìn xuống đều buột miệng cùng một lúc:
-Thằng Trắng!
No comments:
Post a Comment