Thursday, December 11, 2014

Nghĩa Trang Của Những Đứa Bé - Nguyễn Đạm Luân


Nghĩa Trang Của Những Đứa Bé
Chưa Kịp Sống Giữa Thành Phố Pleiku   
 

     Dưới màn sương se thắt lạnh của núi rừng cao nguyên, hàng ngàn nấm mồ nhỏ bé, hiu quạnh nằm lặng thinh bên cạnh nhau trong cái nghĩa trang hoang vắng. Đâu đó quanh đây trời Pleiku, vẫn còn lưa thưa vài tia nắng cuối chiều, chưa buồn rớt vội. Một ngày cũng như mọi ngày, trên con đường lồi lõm đá đỏ xanh, dẫn vào nghĩa trang cũng có và chỉ có ba người, người linh mục tên Đông, anh thanh niên thật thà Phụng và bà cụ già Tâm, đi lên rồi đi xuống, mặt buồn buồn đăm chiêu ít nói.

    Linh mục Đông là cha xứ của nhà thờ Đức An, thành phố Pleiku, là người đã lập nên cái nghĩa trang cho những đứa bé chết vô thừa nhận. Còn anh Phụng vừa làm công việc của một người thợ xây hồ vừa là người, ngày ngày đi nhặt xác những hài nhi bị vứt bỏ chung quanh hay bên trong nghĩa trang. Cụ bà Tâm là người lo quét dọn mả mồ cũng như nhang khói cho các linh hồn không tên tuổi này. Trong bóng hoàng hôn sắp pha màu tím sẩm, ba bóng người chập chờn lúc ẩn lúc hiện như những bóng ma. Mới đó mà nghĩa trang cũng đã được lập nên đúng bốn năm. Cha Đông đứng rảo mắt ra xa, nhìn khắp mồ nghĩ tới chuyện mừng ngày nghĩa trang tròn bốn tuổi mặc dù nhà thờ không mấy dư giả. Thật ra, nghĩa trang này được thành hình từ năm 1992, theo lời anh Phụng kể, vào tết Trung Thu năm 2004, ai đó mang về nhà thờ Đức An của cha Đông một bào thai bỏ trong cái bao ni lông, bào thai đã tượng đủ tay chân hình vóc. Cha Đông nhấc em bé đặt lên tờ báo cũ, trải rộng trên bàn. Em bé đưa tay lên níu chặt ngón tay ông rồi nằm im bất động. Cha Đông mang hài nhi về chôn tại nghĩa trang này, là nơi an nghỉ của hàng ngàn em bé vô thừa nhận khác, cũng bị ai đó vứt bỏ bên đường mà chính Cha đã chôn cất. Cha Đông đặt tên cho em bé là Trung Thu. Kể từ đó, nghĩa trang chính thức được nhiều người biết tới.

    Gần đầu phía cổng vào, nghĩa trang có một nơi thờ phượng chung cho những vong hồn vắng số này. Bàn thờ lúc nào cũng đầy ắp hoa tươi và khói nhang nghi ngút. Phía trên bàn thờ người ta đọc hàng chữ khắc lên tường “Chúng con tha thứ cho cha mẹ”.  Ở bên phải bàn thờ có những câu viết riêng cho hài nhi tên Trung Thu mà cha Đông đã đặt. Bên trái thì ghi lại bài thơ của người nào đó sau lần đến thăm nghĩa trang. Hai cây xương rồng lớn, đàng sau hàng rào bàn thờ, chằng chịch chữ viết mà theo lời anh Phụng, ngoài những lời cầu nguyện an bình cho linh hồn thơ dại còn có cả lời ăn năn sám hối của những người mẹ, đã tàn nhẩn bỏ con chết khi chưa kịp chào đời. Chung quanh bàn thờ lúc nào cũng đầy một màu hoa vàng vàng rực. Đi vòng quanh nghĩa trang, người ta có thể đếm được hơn mười ngàn nấm mồ vô danh nằm sát bên nhau từng hàng dài. Có cái được xây bằng gạch tươm tất nhưng cũng có cái chỉ là nấm đất nhỏ nhoi lạnh lẽo.

   
    Những nấm mồ được xây đàng hoàng là vì còn có người thân thích đến chăm lo, nhưng không nhiều lắm. Số còn lại là do những người có lòng hảo tâm biếu tiền xây cất. Chính anh Phụng cũng mới vừa chôn hai nấm mồ nhỏ xíu hôm qua, mộ vẫn còn mùi đất mới. Anh Phụng nói là sáng sớm trên đường ra nghĩa trang làm việc như thường ngày, thấy hai cái bọc ni lông đen cũ treo lủng lẳng trên ngọn cây xương rồng bên đường, biết ngay là lại thêm hài nhi xấu số nữa bị vứt bỏ vào tối qua. Anh gỡ xuống mang vào nghĩa trang, dùng ruợu rửa sạch xác chết rồi bỏ vào quan tài chôn  trước khi trời tối. Hai nấm đất nhỏ bé kề bên nhau nằm đó. Dưới cái lạnh của sương rừng đêm qua, hai cây nhang cắm vội trước mộ chưa cháy kịp đã tắt đi tự lúc nào. Từ một phía xa xa nào đó, gió lạnh thổi nhẹ về theo bóng đêm vừa lên. Nghĩa trang phủ đầy một màu u uẩn.

    Bốn năm trước, có ngày anh Phụng đã lượm hơn chục bào thai bị phá. Có lần anh thật sự giận dữ vì anh lượm được một em bé có đầy đủ chân tay cứng cáp, nặng khoảng chừng 4 ký lô. Anh chỉ biết khóc than trời hởi trời ơi, đập chính tay mình xuống đất cứng để cố nén đè xúc động. Biết là không thể làm gì khác hơn, anh lặng lẽ tẩm liệm chôn cất em và vái van xin chúa tha thứ cho ai đó. Anh Phụng không nói gì về mình nếu có ai hỏi đến. Ở đây trước đây cũng có nhiều người làm việc giống như anh. Trước anh thì có ông Sáu già, giờ có bà cụ Tâm và mấy người khác nữa mà anh chưa biết đến. Bà cụ Tâm, còn khỏe mạnh và nhanh nhẹn lắm dù đã trên 70 tuổi. Hằng ngày, bất luận trời mưa hay nắng, bà đạp xe đạp chở nguyên thùng nước đầy tới nghĩa trang, rồi làm việc ở đó cho tới chiều tối. Những ngày nắng, bà rửa mộ, nhổ có dại cỏ hoang, quét lá quét bụi cát lối vào nghĩa trang. Bà lau chùi bàn thờ, lo hoa lo nhang khói, canh chừng dê gà không cho vào đào phá mộ phần. Nếu là ngày mưa thì bà ngồi quanh mộ trò chuyện cùng cháu con nằm đơn côi vô tội dưới lòng đất lạnh.

    Bà đến làm với nghĩa trang chừng độ một năm trở lại đây thôi nhưng suốt một năm qua, không có đêm nào mà ngủ cho yên giấc. Trẻ thơ đối với bà qua thời làm mẹ rồi làm bà, bà Tâm xem trẻ thơ là những món quà thiêng liêng vô giá mà trời đất đã ban cho loài người. Vậy mà người ta đã nhẩn tâm giết chết cái quyền làm người của trẻ thơ tội tình, bà đau đớn xót xa mỗi khi ngồi nhìn những nấm mồ mới đấp, những nấm mồ xem ra ngày càng nhiều hơn thêm. Không biết suy nghĩ được bao lâu, càng nghĩ càng nhìn cái nghĩa trang hoang vắng, những nấm mộ đơn lẻ nhỏ nhoi bà Tâm quyết định ở lại đây, để cháu con còn có được đôi chút khói ấm của nhang thơm sưỡi mồ sâu quạnh quẽ. Vì thế ngày ngày, bà đi thắp nhang một lượt khắp nghĩa trang buổi sáng rồi buổi chiều rồi mới đi làm việc thường lệ. Cuối ngày, trước khi đẩy xe đạp ra về, bà không quên thắp thêm một lần nhang nữa. Nếu có ai kia hỏi về số phận của những đứa bé nằm cô đơn trong nghĩa điạ, người ta không nghe bà trả lời nhưng nhìn vào gương mặt già da nhăn từng nếp một, người ta chỉ thấy bà lắc đầu và lệ ứa tràn trên đôi má hóp lại theo tuổi đời chồng chất. Tuy vậy bà rất vui, vui vì có cháu con nằm ở đây, lo cho nó, chuyện trò và khóc cười với nó. Bao nhiêu đó cũng đã làm bà không thấy cô đơn như trước đây nữa.

    Sáng sớm, mỗi lần tới nghĩa trang thấy anh Phụng đang đào huyệt mới là hồn bà đau buốt từng cơn. Bà biết chắc sẽ có ai đó gây nên tội, ăn năn hối hận vì hằng ngày tại nghĩa trang này, có không thiếu gì những cô gái trẻ đến, đi loanh quanh mấy nấm mồ nhỏ bé. Đôi lần bà trông thấy họ khóc nhưng lại cố quay mặt đi khi có ai tình cờ bắt gặp.

   
    Đêm xuống, trời bắt đầu nhuốm lạnh. Những nấm mộ bé nhỏ nằm từng hàng dài bên nhau lặng thinh. Nghĩa trang buồn như cái buồn đồi núi. Lại một đêm nữa, không biết có bao nhiêu tiếng than não nuột cho đời mình của những vong hồn bé con vừa chết đi chưa kịp sống tại đây. Ở phía trong xa kia, tiếng chuông chiều của giáo đường Đức An kéo dài từng hồi rã mệt.

 
Nguyễn Đạm Luân

(Viết theo Tin Việt Nam)

 

No comments: