Wednesday, December 31, 2014

Mười Bảy Năm Trước-Thuyên Huy


Mười Bảy Năm Trước
 Viết cho NCT, người còn mang chút nợ đời không trả được ở đời này.

 
  

    Tôi ngồi lặng im, trên cái ghế  kê gần tủ thờ ông bà giữa nhà, nghe ba tôi kể lại câu chuyện mà tôi muốn biết của mười bảy năm trước đây. Giọng ông trầm trầm, mẹ tôi ngồi trên bộ ván gỏ nung bên cạnh, đăm chiêu nhìn, không thêm không bớt lời nào. Mới xế trưa mà ễnh ương đã kêu dài ngoài đám ruộng sau vườn, cây bưởi góc sân rụng đầy hoa trắng. Tách nước trà cạn dần theo từng lời ông nói: “ sau khi đứa con đầu của ba mẹ bị bệnh, chết trên tay của mẹ con trên đường từ Gò Dầu xuống Sài Gòn vào bệnh viện. Mẹ con buồn bả như người mất hồn, ba quyết định đi xin con nuôi. Nghe vài người quen chỉ, ba lên Tây Ninh, tìm trúng nơi nhà cô ba Hoài. Ba kể lại chuyện và cuối cùng, cô ba đồng ý cho con làm con nuôi. Gia cảnh cô ba hay mẹ ruột của con lúc đó có vẻ thiếu thốn quá. Ba nhận ẳm con về, gởi lại cho cô ba số tiền mấy trăm đồng thời đó, số tiền này tuy không nhiều, nhưng thời buổi đó tiền có giá lắm, lương công nhân chắc đâu chừng ba bốn chục gì một tháng. Hôm đó, cả nhà mẹ ruột con khóc sướt mướt. Ba có hứa, khi con được mười tám tuổi, vào đại học, ba sẽ cho con biết chuyện này. Giờ thì con hỏi, thôi cũng đã đến lúc con cần biết rồi. Đó chuyện là như vậy...”.

    Ba tôi ngưng ở đó, mẹ tôi kéo vạt áo bà ba xám lên lau nước mắt. Cả ba người chúng tôi lặng thinh, tôi cúi đầu khóc rấm rứt, không dám ngước nhìn lên như một tên tội đồ sợ tội phạm thượng. Mẹ tôi bước xuống ván, chậm rãi đi về phía bên hông tủ thờ, mở cái hộp thiếc cũ lấy ra một tấm hình đen trắng, giấy đã ngả sang màu vàng đục, bà đến gần đưa cho tôi, tấm hình chụp lúc tôi vừa về nhà ông bà, tròn ba tuổi. Bà vuốt đầu tôi nhè nhẹ:

-Chuyện gì mặc chuyện gì, con lúc nào cũng là con của ba mẹ.
Tôi không kềm lòng được nữa, òa lên khóc nức nở. Ba tôi vẫn ngồi yên:

-Chuyện là vậy đó, bây giờ tùy ở con, hồi nhỏ ba mẹ thương con bao nhiêu thì bây giờ ba mẹ cũng vẫn thương con bấy nhiêu. Cả đời này, con vẫn là con của ba của mẹ.
    Nghe ba tôi nói đến đây, mẹ tôi cũng kềm lòng không nổi, bà nắm tay tôi khóc ròng. Tiếng ễnh ương vẫn còn kéo dài lê thê ngoài ruộng, trời sắp về chiều. Anh năm Thạnh tay xách đục cá từ phía sau vườn bước vào, mẹ tôi một lần nữa, kéo vạt áo lên lau mắt. Ba tôi lúc bấy giờ mới bước xuống bộ ván, anh năm Thạnh không để ý gì, nhìn tôi cười thoải mái hỏi:

-Mai chừng nào em đi?

-Dạ, chắc độ chín mười giờ. Tôi trả lời mà không nhìn anh vì tôi vẫn còn thúc thích. Anh năm đi ra rồi, tôi đưa tấm hình lại cho bà:

-Con xin lổi ba mẹ là đã hỏi chuyện này, làm ba mẹ buồn, ba mẹ suốt đời vẫn là ba mẹ của con, không ai có thể thay thế được.
    Ba tôi bưng tách trà lên uống một hơi rồi cười thật tươi, nụ cười không thành tiếng. Nhà tôi ăn cơm chiều trễ hơn ngày thường, dù chị năm Thạnh thúc hối ba lần bảy lượt, chị cứ sợ để lâu, mấy con cá lóc mà anh năm bắt về từ xế trưa không còn tươi ngon nữa. Tôi thao thức một mình trong bóng đêm, cố dặn lòng đừng để con sông đời mình có thêm ngỏ rẽ. Tôi chợt mình thức giấc, có tiếng ba tôi tằng hắng ngoài sân sau, trời đã hơn sáu giờ sáng. Ở một góc nào đó cạnh bờ rào, tiếng dế gáy vang rân. Hình như đêm qua không có tiếng súng.

     Rồi cũng như mọi lần, ba mẹ tôi đưa tôi ra bến tàu, trên sông sương mù giăng kín, mẹ tôi cũng dúi vào tay tôi thêm vài trăm bạc. Tàu ra khỏi bờ, nhìn bóng ông bà mờ mờ trong màn sương, nước mắt tôi ứa ra, chưa bật thành tiếng khóc.
 



   
 Sài Gòn mấy ngày nay không thấy mưa, nắng nóng chang chang, đường phố mịt mù bụi. Vài hôm nữa thì trời vào Hạ, chiến trận ngày càng tăng dần, không thấy dấu hiệu gì giảm bớt. Đám bạn ngày xưa, giờ đã chết cho chiến trường gần phân nửa, Cộng sản Bắc quân công khai dùng đất Lào và Cam Bốt mở đường, đấp chiến khu, xua quân vào Nam, phụ tay với bọn du kích Việt cộng, nhất định chiếm miền Nam cho bằng được, dưới sự hổ trợ đắc lực của quan thầy Trung cộng, Liên Xô và khối cộng sản Đông Âu. Miền Nam ra sức cố thủ, chống trả nhưng cũng đành mất một số đất thuộc mấy tỉnh Bình Long, Quảng Đức dọc theo biên giới. Nghĩa trang có thêm nhiều bia mộ mới, trắng một màu vôi. Chiếc xe tang, khăn trắng, tiếng khóc gọi hồn, giờ đã trở thành cái gì quen thuộc trên đường phố Sài gòn hay con lộ ngoại ô bùn lầy nước đọng. Trong cái không ngột ngạt của cuộc chiến không hẹn ngày an bình, Sài Gòn vẫn vội vàng sống, dù là người đã nhập cuộc hay kẻ còn đứng bên lề.
    Chiều thứ sáu, sau giờ học cuối, Tùng, thằng bạn cùng nhà trọ, qua phòng thí nghiệm tìm kiếm gì đó, buồn quá, tôi đón xe buýt ra chợ Bến Thành. Đi lòng vòng cũng không thấy gì vui, tôi bỏ đến ngồi uống cà phê tại một quán vắng bên lề đường Lê Thánh Tôn, nhìn kẻ qua người lại trong cái nắng chiều thoi thóp, đổ dài theo từng chiếc lá me rung rẩy bay. Chợt dưng tôi nhớ Bến Cầu vô hạn, nhớ cái giọng trầm trầm mà ba tôi đã kể lại chuyện của mười mấy năm xưa, để trả lời cho câu tôi hỏi, nhớ tấm hình đen trắng chụp ngày tôi mới lên ba mà mẹ tôi đã nâng niu như bảo vật trong suốt bao nhiêu năm trời. Tôi nuốt chững ngụm cà phê thật nhanh để lòng mình không kịp khóc, nhưng đôi giọt còn đọng lại trên môi nghe như mằn mặn. Trả tiền xong, vừa lửng thửng định băng qua đường, thì gặp Thảo  và Uyên từ hướng Tòa Đô Chánh đi tới. Hai cô cùng thốt lên một lượt:

-Ủa anh Bảo, làm gì ở đây có một mình vậy?
    Tôi gật đầu chào, chưa trả lời thì Uyên nói tiếp:

-Khánh Tường đang ở tiệm bà chị, tụi em cũng từ đàng đó lại, định đi kiếm chè bánh lọt về ăn.
    Tôi thật sự không thấy vui trong lòng nhưng cũng ráng gượng cười:

-Mấy cô hết giờ học sớm vậy sao?

-Có anh đây, thôi mình trở lại tiệm gặp Khánh Tường đi, rồi tính đi đâu thì đi, như vậy vui hơn. Thảo nhanh nhẩu nói.
    Hai cô nàng bỏ đi trước, tôi chầm chậm theo sau. Phố xá đông người và lá me úa vàng vẫn cứ lả tả rơi. Về đến tiệm, tôi chỉ kịp chào bà chị thì Khánh Tường đã nắm tay tôi đi ra, Thảo và Uyên tủm tỉm cười đứng trước cửa chờ, bà chị đành nhìn theo mà không nói thêm gì được.

    Băng qua mấy cái quán nhạc trên đường Nguyễn Huệ, tôi đứng chờ ba cô đi lại chỗ giữ xe gắn máy lấy xe. Từ đầu này nhìn về bến Bạch Đằng, phía bên kia sông, chiều Sài gòn bắt đầu xuống thấp dần, mây lưa thưa từng cụm một màu tím ngắt. Theo lời đề nghị của Uyên, bọn tôi lái xe Honda ra Phú Lâm ăn hủ tiếu Nam Vang Kim Tháp. Quán đông nghẹt người, bọn tôi chọn cái bàn ngoài mái hiên, nhìn ra quốc lộ 4 đi miền Tây. Gió chiều thổi ngược về thơm mùi rạ khô của mấy cánh đồng, chạy dọc theo đường làm tôi chợt nhớ nhà quá. Tôi trầm ngâm nhìn xa xa, không biết là từ nãy giờ ba cô nàng cũng đang nhìn tôi dò xét. Tôi quên mất cái cười mà tôi có thường ngày, câu chuyện của đêm nào ở Bến Cầu đã làm cho hồn tôi cứ ray rứt buồn buồn. Khánh Tường ngài ngại nhìn trong lúc chờ người bán hàng bưng mấy tô hủ tiếu tới:

-Anh Bảo hôm nay sao thấy buồn vậy? Tụi em có làm gì để anh giận không đây?
    Thảo vừa đó thêm vào:

-Thật tình mà nói, em để ý thấy anh hơi là lạ từ khi về tới tiệm của chị hai kìa!
    Tôi cố làm vui đáp lời:

-Đâu có gì đâu, lâu lâu nhớ nhà một chút mà. Tôi ngưng ở đó, không dám nói gì thêm vì mắt tôi đã rươm rướm đỏ.
    Cả ba cô, ai nấy đều ngồi lặng thinh, chờ người bán hàng bưng mấy tô hủ tiếu tới xong rồi bỏ đi, tôi đành xuống giọng vì không thể dằn lòng khi nhìn Khánh Tường buồn rười rượi.

-Thôi mình ăn xong đã, anh cũng có chút buồn, ăn đi rồi anh nói cho nghe.
     Cả ba cô cùng thở phào một lượt. Mặt trời chỉ còn ửng đỏ hơn phân nửa ở phía bên kia cánh đồng. Gió thổi nhẹ vào mái hiên quán ăn, bắt đầu lành lạnh. Người bán hàng, một lần nữa bỏ đi sau khi đặt ly cà phê sửa đá trên bàn. Tôi bưng ly lên uống vài ngụm nhỏ, mùi thơm cà phê làm tôi có phần tỉnh táo và dễ chịu.
    Ba cô nàng nghiêm nét mặt chờ. Tôi chậm rãi kể lại câu chuyện đời mình, chuyện của một thằng bé bị cho đi từ năm mới lên ba và chuyện của hơn mười mấy năm sau. Tôi kết thúc ở đoạn, ba mẹ đưa tôi ra cầu tàu đò Bến Cầu, môi tôi mặn đắng, không ai nói lời nào. Lờ mờ qua ánh đèn điện vừa lên, Khánh Tường ôm mặt khóc rấm rức, Thảo không khác gì Uyên, mắt hai cô đỏ hoe. Chúng tôi cùng nhìn về một phía ngoài quốc lộ, giờ này đường vắng tanh. Bất chợt, mưa về ngang hết sức tình cờ, một cơn mưa trái mùa lẻ bạn.
    Trên đường về, không ai nói câu nào. Tùng đứng lang thang trước cửa nhà trọ vẫy tay chào. Khánh Tường, Thảo và Uyên đi rồi, Tùng nhìn tôi ngài ngại. Phố bắt đầu vào đêm, phía nhà bên cạnh có tiếng đứa con gái quen, hát nho nhỏ bài tình ca nào đó.

 Thuyên Huy

(Trích trong tập truyện “Bất Chợt Thu Về Đầu Hạ”)

 

 

No comments: