Chiếc Lá
Hình Giọt Lệ
Suốt
thời niên thiếu, tôi nghiện hương vị tết phả ra từ căn bếp chị Thời. Hương
vị ấy ăn sâu, bám mãi trong lòng tôi, dai dẳng, da diết mỗi độ xuân về.
Sau
tiết đại hàn, khi mưa chỉ còn lất phất, lâm thâm và rét đã đằm đi, dịu lại, cây
mai vàng trảy lá sớm của chú Tâm lác đác vài nụ chúm chím, chị Thời bắt tay
chuẩn bị tết. Từ bên ni hàng rào chè tàu ngăn hai nhà, tôi thấy chị tất bật đi
về với những giỏ xách nặng trĩu. Mẹ nhìn qua lẩm bẩm: "Cái con giỏi thiệt!
Tau mà thằng Tâm..." - Mẹ bỏ lửng câu nói nhìn chú Tâm ngồi thẫn thờ ngắm
nắng, lắc đầu.
"Mai
nắng to không anh Tâm?" - chị Thời nhìn chú, hỏi qua rào. Chú Tâm nhìn
trời ngâm nga: "Trời mưa thì mặc trời mưa. Tôi phơi dưa món... trời chừa
tôi ra!". Chị tủm tỉm cười bắt tay làm dưa món. Nhìn chị tỉ mỉ tỉa dưa mà
không nỡ ăn. Ngọn lá, cây thông, hoa đào, trái lựu bằng đu đủ đẹp như ngọc;
những con thú bằng cà rốt, su hào xinh như đồ chơi. Có một năm chú Tâm dự báo
thời tiết không đúng, chị phơi dưa vào ngày không được nắng. Dưa thiu, chị ỉu
xìu, còn chú Tâm quạt lửa than cho chị ngồi hong đến nửa đêm. Cái thẩu dưa món
không trắng ấy chị gọi là "dưa - nắng - ốm!".
Cái
tết đối với tôi không chỉ ba ngày. Nó dài ra theo những ngày làm mứt và ăn mứt
nếm của chị. Đi học về là tôi chạy bổ sang nhà chị. Bao giờ cũng thấy chị ngồi
trong bếp gọt me, gọt quất, gọt gừng, rim mứt... tóc rối ren, người sực nức mùi
mứt ngào ngạt. Học xong, tôi lại qua ngồi canh mứt với chị, đợi chị cho ăn mứt
vét. Đối với tôi, không có thứ mứt nào trên đời ngon lạ ngon lùng như thế. Tinh
túy cả thau mứt dường như lắng lại trong những vụn đường, vụn mứt dưới đáy
thau. Vụn dừa béo ngậy. Vụn gừng nồng nàn. Vụn khoai bùi đậm mê người. Vụn sen
ngon đến bối rối... Có khi đợi không nổi, tôi ngủ gục trên vai chị. Cả trong
giấc ngủ tôi vẫn cảm nhận được sự ấm áp, thơm tho không bờ bến vây bọc lấy mình
trong đêm cuối đông.
Chú
út Tâm của tôi mắc bệnh thất tình từ khi chị Hà, người yêu chú, đột ngột đi lấy
chồng. Chú hay lẩm bẩm đọc thơ hoặc ngồi im như bụt. Nhưng chớ dại chọc chú
nói. Chú sẽ tuôn ra như nước chảy miên man câu chuyện tình đầy ắp ký ức chú đến
lần thứ một ngàn lẻ một. Chỉ có một người lắng nghe lần thứ một ngàn lẻ một
chuyện tình của chú mà không trêu chọc, đó là chị Thời.
Nhà
chị Thời có ba cô con gái. Chị là con đầu, không đẹp nhưng lại có mái tóc còn
đẹp còn hơn tóc người mẫu quảng cáo dầu gội đầu. Tôi thích nhìn chị mặc áo lụa,
túm hờ hai lọn tóc mái bằng chiếc nơ nhung đen đằng sau. Nghe nói hồi đi học có
nhiều người "chết đuối" trên suối tóc chị nhưng không hiểu sao chị
vẫn chưa có chồng. Mái tóc ấy luôn gội bằng bồ kết, hong khô bằng gió trời,
ngan ngát mùi hương bưởi, hương nhu, óng ả, mềm mại, dìu dịu bay bay đến say
lòng. Tôi hay nhìn chị hong tóc qua bờ rào. Cả chú Tâm cũng nhìn, nhưng khi tôi
hỏi chú có đẹp không thì chú lại lạc đề về một mái tóc khác. Rồi không hiểu vì
cớ gì chị cắt phăng mái tóc dài đẹp nhất xứ Huế. Tôi tiếc ngẩn ngơ, nhặt chiếc
nơ nhung đen chị quẳng ép vào cuốn từ điển chẳng biết để làm gì. Tết năm ấy,
tôi không còn được ngủ gục trên mớ tóc dài ngan ngát hương mứt của chị nữa. Năm
ấy vụn mứt đượm mùi khét đắng.
Mẹ
rủ chị Thời lên chùa Linh Mụ cúng giải lời thề cho chú Tâm vì bệnh chú mỗi ngày
một nặng. Chú cứ lang thang dọc đường Lê Lợi để đón chị Hà tan trường dù chị Hà
đã theo chồng tận đẩu đầu đâu. Những cặp tình nhân ở Huế không mấy ai chọn chùa
Linh Mụ làm chứng cho sự thề nguyền vì sợ nữ thần áo đỏ của chùa nổi cơn ghen
giáng xuống bất hạnh. Thế mà chú và chị Hà lên chùa học thi, dại dột thề nguyền
chi nơi đó... Rồi không phải nữ thần giải lời thề mà chính chị Hà về lôi chú ra
khỏi cơn mê hoang tưởng về một mối tình vĩnh cửu. Tôi không nhận ra chị vì chị
như một quí bà, béo ra, đầy trang sức và son phấn. Chị thương hại nhìn chú Tâm
gầy gò, xơ xác, lầm bầm đọc những câu thơ dành cho chị và chợt rùng mình vì
không gắn kết số phận với một người như thế. Chú Tâm dường như tỉnh lại bởi cái
rùng mình của người chú đã yêu điên dại cả tuổi thanh xuân. Chiều ấy, những bài
thơ tình chép bằng mực tím lả tả thả bay trong gió. Tôi tiếc chạy theo lượm đem
cho chị Thời. Chị ngồi đọc, chậm rãi như uống từng giọt trong bóng hoàng hôn.
Hai
cô em song sinh của chị Thời, thua chị mười tuổi, học cùng lớp với tôi hoàn toàn
trái ngược với chị như nước và lửa. Hai đứa giống nhau như đúc, đẹp đến phát
sợ, nổi tiếng từ ngày còn mặc áo đầm đi học mẫu giáo qua các kỳ thi bé khỏe, bé
đẹp, hoa hậu nhí... Một đứa mặc đầm vàng, một đứa đầm xanh để dễ phân biệt. Hai
sắc màu ấy trở thành tên thường gọi của chúng - con Vàng, con Xanh. Con Vàng dễ
ghét lại ngồi gần tôi. Hễ tôi chạm vào cái áo đầm xòe to như cái hoa hướng
dương của hắn thế nào cũng bị hắn véo. Có cái gì khoe, hắn cướp ngay. Nắm đấm
chưa chạm vào người, hắn đã bù lu bù loa nằm vạ. Con Xanh hiền hơn, dẫu vẫn
khuôn mặt búp bê giống hệt con Vàng. Tôi và hắn hay chơi trò nấu ăn, trò vợ
chồng. Cơm nấu trong cái nồi đất nhỏ xíu, chưa kịp xới ra những cái chén bằng
lá mít đã bị con Vàng ném đá bể nồi. Con diều cắt dán cả tuần chưa kịp thỏa
khao khát trời xanh đã bị hắn xé toang rồi lấy chân giẫm lên. Tôi nắm áo bắt
đền, hắn nắm tóc tôi tru tréo. Tôi gọi chú Tâm. Hắn gọi chị Thời. Kết cục mỗi
đứa bị đét vào mông một roi mới yên chuyện.
Tôi
càng lớn, chị Thời càng làm mứt tết ít đi. Bánh hộp, kẹo hộp, mứt công nghiệp ê
hề ra đó, vừa đẹp vừa rẻ, chỉ cần một giờ ra chợ là có ngay cái tết nên chẳng
mấy ai bỏ cả chục ngày dài để làm như chị ngày ấy. Có làm cũng chẳng mấy ai ăn.
Mốt mứt đã tàn lụi. Món mặn và đồ nhắm lên ngôi. Đi nhà nào cũng thấy giò chả,
nem tré, thịt nguội, đồ nhắm đưa cay. Tôi đi học xa về, sà vào bếp chị. Ông Táo
về trời mấy hôm rồi mà bếp vẫn lạnh tanh, chỉ mấy thẩu đồ chua trên kệ, chị bảo
nhà không cho làm. Bạn con Vàng, con Xanh thì nhấm nháp kẹo sôcôla, hạt điều.
Bạn bố thì thưởng thức đồ nhắm nguội mua sẵn. Mứt ế phải đem cho bọn con nít
nghèo trong xóm. Không có cái bếp sực nức mùi mứt của chị Thời, hương vị tết
đối với tôi bỗng nhạt hẳn. Tôi bỏ đi chợ tết với bạn gái. Cô ấy không biết làm
mứt và cũng không cần biết, chỉ mặc thật đẹp ra phố, dạo qua hàng mứt bánh nhón
nếm và chọn mỗi thứ một ít. Thế mà hồi nhỏ tôi bảo với chị Thời lớn lên em chỉ
lấy cô nào làm mứt ngon như chị.
Tết
năm nay về nhà, tôi lại thấy bếp chị rộn ràng. Những trái me dầm đẹp như ngọc xúm
xít nhau trong thẩu. Những trái quất rim vàng óng gối đầu lên nhau. Rồi mứt hạt
sen đài các, mứt khoai dân dã, mứt khế như cô bé lọ lem mà tôi mê mẩn cũng có
mặt. Trên lò than âm ỉ nóng lại là thau mứt dẻo rối lòng rối dạ bởi sự hòa
quyện màu sắc, hương vị cay chua ngọt đắng như đời... Người chị lại sực nức mùi
mứt, ấm nồng hơi lửa, má đỏ hồng, tóc rối ren... Chị giải thích năm nay có
khách xa về ăn tết. Con Xanh lấy chồng ở nước ngoài về thăm nhà sẽ đem theo một
ông Việt kiều về giới thiệu cho con Vàng. Vả lại có em và anh Tâm về... - Chị
nhìn tôi rồi nhìn ra cửa, ánh mắt đợi mong. Tỉnh giấc mộng tình, chú Tâm cầm
cái bằng tốt nghiệp trường sư phạm tình nguyện về nơi cuối đất làm thầy giáo ở
đất rừng U Minh. Chú hẹn năm nay về ăn tết.
Con
Xanh trở về đúng lúc chị Thời vừa hoàn thành món bánh bó mứt. Tôi đứng nhìn chị
trộn các loại mứt quất, gừng, cam, bí... đã cắt mỏng vào chảo đường bột đánh
nhuyễn trên bếp, sau đó bưng cả chảo trút lên cái mâm rải sẵn bột nếp khô, lấy
tay nắn thành đòn dài. Con Xanh lao vào bếp, hôn tới tấp lên đôi má dính bột
nếp của chị Thời, rên lên: "Em nhớ nhất cái bếp của chị!". Nó quay
qua tôi hôn đánh chụt vào trán "ông chồng thời thơ ấu" rồi ngắt đại
một miếng bánh trên mâm cho vào miệng nhai ngấu nghiến như kẻ đói khát hương nhà.
Nó vẫn như ngày nào, đẹp rực rỡ và không để cho người khác yên.
Con
Vàng thất vọng vì ông Việt kiều con Xanh dẫn về đã già nhưng con Xanh bảo chỉ
hơn chồng nó năm tuổi. Nhiều lắm là như bài hát "Năm anh hai mươi, em mới
sinh ra đời. Ngày anh bốn mươi, em vừa tròn đôi mươi...".
Đó
là một kẻ tha hương bị lưu đày trong nỗi nhớ quay quắt trở lại quê nhà thì đúng
hơn. Con Vàng không hợp gu với ông Việt kiều đẫm hương đồng nội này. Những bộ
áo váy cực kỳ thời trang phô thân thể son trẻ của nó không tác dụng. Vẻ đẹp
từng quyến rũ bao hội đồng chấm thi thời trang, sắc đẹp từ bé đến giờ không lọt
qua cửa sổ tâm hồn của người đàn ông đang là đối tượng săn đuổi của nó. Ông ta
thích lang thang một mình theo những lối mòn của ký ức để tìm lại thời gian đã
mất hơn là đi nhảy nhót với nó. Ông ta mê mải nhặt những từ cổ lỗ sĩ, quê bỏ xừ
của các mụ nhà quê, các gánh bún bò, cơm hến hơn là ngôn ngữ thời thượng của
nó. Một lần nghe chị Thời mắng yêu tôi "ăn như thúng lủng khu" ông
hớn hở nhặt ngay như nhặt được cục vàng, cám ơn chị rối rít làm chị ngỡ ngàng.
ông bảo hồi nhỏ ông bị mạ ông mắng như rứa khi ăn một lần ba tô cơm hến. Nghe
lại nhớ quá! Nhà chị Thời mời đi ăn cơm vua ở khách sạn Hương giang, ông lại
xin ăn một bữa cơm dân tại gia. Chị Thời phụ trách trong bóng tối bữa cơm ấy để
con Vàng được là tác giả ngoài ánh sáng. Cá bống thệ kho tiêu kiểu Huế cứng
ngắc, cong vòng, canh rau dền nấu tôm, chột nưa kho, thịt phay chấm tôm chua
kèm đĩa chuối chát, vả, khế, rau thơm trình bày đẹp như một tác phẩm nghệ thuật
và chè khoai tía tráng miệng. Bữa cơm nhà bình thường ấy đem lại kết quả mỹ
mãn. Ông Việt kiều ăn như mở toang cảm giác đón nhận hương vị, ăn chầm chậm như
ngậm mà nghe mùi vị nhung nhớ trào về rồi thở hắt ra lời khen rất Huế:
"Răng mà ngon dễ sợ!". Ông nhấp đắm say từng ngụm nước chè tươi thơm
nức mùi gừng và bảo hai mươi năm rồi ông mới lại được ăn một bữa cơm đượm khí
vị quê nhà như thế. Mẹ con Vàng được dịp khoe hắn nấu nướng giỏi, coi bộ chịu
chơi vậy chứ nếu cần cũng đảm đang lắm. Còn con Vàng bảo chuyện đó đối với hắn
dễ dàng như ngồi sơn móng tay.
Hai
mươi tám tết, chú Tâm vẫn chưa về. Tôi phải thay chú canh nồi bánh tét. Nhà chị
Thời cũng nấu. Hai bếp lửa chụm đầu nhau bên rào. Cây mai nở rộ, toàn thân như
tỏa ánh vàng trong bóng đêm, phả một mùi hương nhớ. Chị Thời kể cho tôi hồi bé
chị hay trèo lên cây mai mở to mắt không chớp để rình coi mai nở. Thế nhưng
chẳng bao giờ chị chộp được khoảnh khắc ấy vì chú Tâm ác lắm cứ nắm áo kéo chị
xuống. Có lần chị kéo bị té gãy chân phải bó bột, còn chú chuộc lỗi bằng cách
cõng chị đi chơi cả tháng... Chị phụ mẹ làm mứt bán tết từ thuở mười ba. Khi mẹ
đẻ con Xanh, con Vàng chị làm một mình, tay sứt sẹo, nứt ra vì gọt me, gọt
quất... Chú Tâm thấy tội hay qua gọt giùm. Chú gọt me giỏi vì thế... Chị ngồi
bó gối, giấu ánh mắt trong ngọn lửa bập bùng, gương mặt buồn và kiêu hãnh có
phần héo hon bởi năm tháng, mái tóc để dài lại gói trong chiếc kẹp cứng ngắc.
Tôi lục tung đống sách cũ tìm chiếc nơ nhung đen bị gián gặm lỗ chỗ đưa cho
chị. Chị cài lên tóc, cười mà mắt như có nước.
Chú
Tâm về vào chiều 30 tết. Nghe tiếng reo mừng chú bên kia rào, chị Thời luống
cuống suýt đổ cả nồi chè đậu xanh đánh nấu cúng giao thừa. Mặt chị tái đi nhưng
đôi mắt ngời ngợi một niềm vui không tả nổi, xôn xao chảy tràn trên khuôn mặt
vốn trầm tĩnh của chị. Môi chị run run nửa cười nửa mếu. Dưới thứ ánh sáng kỳ
diệu của tình yêu mãnh liệt mà câm nín ấy trông chị đẹp lạ lùng. Tôi và chị
chạy ào ra cửa bếp. Chị nhìn sững chú Tâm, còn tôi nhìn sững một bóng người
đứng dưới cội hoàng mai. Đó là bóng một cô gái. Trái tim tôi bỗng thắt lại bởi
một linh cảm vừa ào tới. Tôi quay lại nhìn chị Thời như cố khắc ghi thoáng hạnh
phúc mong manh rờ rỡ trên mặt chị trước khi nó lịm tắt.
Mứt
của chị Thời năm nay không ế. Chị bỏ bùa trong những món mứt khiến ông Việt
kiều quanh quẩn mãi bên nhà con Vàng nhấm nháp mứt với nước trà. Hắn khoe cá
sắp cắn câu vì ổng tưởng hắn làm. Ông khen món ăn nhà nó đậm hương vị quê
hương, có mùi văn hóa, ăn ngậm mà nghe. "Kiểu này lấy ổng, tao phải đem
theo bà Lạc Thời!" - con Vàng cười. "Rồi ổng biết mi không nấu được
nước sôi thì mần răng?". "Dễ ợt. Qua đó không hợp thì ly dị. Khối
người rứa. Chết ai mô!". Tôi ngắm đôi môi tô son tím lịm mốt Hàn Quốc của
nó đang dẩu ra và không hiểu tại sao nó là em ruột chị Thời.
Ông
Việt kiều chính thức ngỏ lời với nhà chị Thời, nhưng không phải xin cưới con
Vàng mà là chị Thời. Đúng là một quả bom nổ! Mẹ chị ngồi sững không biết nói
thế nào. Con nào cũng là con. Con Vàng há hốc miệng rồi nanh nọc: "Tân
thời không ưa, lại ưa lạc thời. Dắt nhau về thế kỷ 19 mà sống, đây đi lấy chồng
Hồng Kông!". Nó nguýt ông Việt kiều cổ lỗ sĩ một cái tưởng như cắt ông ta
làm mấy mảnh rồi rú xe ra khỏi cổng, chấm dứt những ngày đóng vai yểu điệu thục
nữ, công dung ngôn hạnh.
Tôi
không ngạc nhiên. Tôi không tin một người sâu nặng với kỷ niệm và quá khứ như
ông Việt kiều lại chọn một tạo vật xinh đẹp phù phiếm như con Vàng thay vì một
người lặng hơn nước, thấp hơn cỏ nhưng sức sống tâm hồn vẫn trào dâng ngay cả
khi ngồi im lặng.
Chị
Thời không nhận lời cầu hôn lại được xem là quả bom nổ thứ hai trong vòng một
ngày. Không đẹp, lớn tuổi, coi như thuộc loại ế thế mà chị từ chối không luyến
tiếc cơ may vừa có chồng giàu vừa được xuất ngoại. Mặc cha mẹ và con Xanh phân
tích hơn thiệt, cả chú Tâm cũng khuyên vào, chị ngồi im, lặng lẽ ngó qua bên
kia hàng chè tàu, nơi trước kia chú Tâm thường thờ thẫn đi lui tới lẩm bẩm mấy
câu thơ:
"Tình
thơ dại ai ngờ sâu nặng thế.
Năm
tháng đi mà tình yêu vẫn ở
Mai
cho dù tóc trắng với ngàn lau" (*)
Nắng
hoàng mai vừa tắt, chú Tâm đã bàn chuyện hôn nhân của chú. Cô kia cũng dạy học,
mồ côi, neo đơn nên cưới hỏi một lần cho tiện, sau đó dắt nhau vào lập nghiệp ở
quê người. Chú bảo trong đó dân tình ấm áp, đơn giản, dễ sống lắm. Chú đã tìm
lại niềm bình an. Mấy mâm cỗ cưới chú trông cậy vào đôi tay khéo léo đảm đang
của chị dâu (tức là mẹ tôi) và cô bạn thân từ thuở thơ ấu. Chị Thời nhận lời và
bắt tay vào việc chuẩn bị. Tôi hay xót xa nhìn trộm chị nhưng chỉ gặp một chị
Thời lặng lẽ, khép kín không thể thấm qua. Ngày cưới càng kề, chị càng bận rộn
như thể đám cưới chị. Ánh đèn trong bếp vẫn đỏ cho đến nửa đêm. Chị thức làm
bánh gatô, bánh phu thê... Thấy chị ngồi tỉ mỉ dưa chua, tôi bỗng cáu:
- Kệ
họ! Đi ngủ cho khỏe!
- Em
cưới vợ, chị còn thức hơn thế nữa.
- Em
không khiến. Dọn nhà hàng. Đã rứa... còn hành người ta!
-
Làm việc luôn tay... khỏi nghĩ trong đầu.
Chị cười ngu ngơ rồi lại cắm cúi tỉa dưa.
Chẳng biết làm gì, tôi xúm vào giúp chị cho mau xong việc. Chị vẫn tỉ mỉ như
ngày nào làm dưa món. Tôi chợt thấy trên tay chị rơi xuống những chiếc lá mất
cuống, thiếu răng cưa, thuôn thuôn hình giọt lệ, những giọt lệ đu đủ đẹp như
ngọc, những giọt lệ cà rốt hồng tươi như máu. Tôi nhận ra chị Thời đang khóc.
(*):
Thơ Võ Quê (trong bài Nơi con sông)
(304Đen – Lượm lặt trên trang mạng)
No comments:
Post a Comment